Câu hỏi:
Thưa sư phụ xin sư phụ giúp con một vấn đề trong quá trình tu tập của con gặp các đạo hữu và hỏi có hiểu không, thì họ nói là hiểu rõ. Đợt vừa rồi con có dịp về quê và quan sát các vị tu thì Giải Thoát Tâm rất tốt, thế nhưng khi có duyên sự, khi đối diện với những sự việc bất như ý, con thấy các vị không quán được, con chứng kiến cái sân còn rất là nhiều.
Con có tham gia là tu giờ làm sao phải tách bạch ra cái biết ý thức để cho khi có những cái bất như ý thì biết là cái biết ý thức nó biết gián tiếp qua căn nhãn thức hoặc qua căn nhĩ thức để tách bạch hẳn ra cái ta.
Con thưa xin sư phụ thì hôm nay nhân duyên này sư phụ đào sâu giúp cho con và các đạo hữu về vấn đề này cái bản ngã mà tu tập Giải Thoát lúc ngồi thiền rất tốt nhưng khi gặp những cái bất như ý thì các vị không quán được.
Con xin tri ân sư phụ.
Thiền Sư Nguyên Tuệ trả lời:
Mới thực hành giải thoát bằng ĐỊNH là chủ yếu
Quý vị thấy rằng là trong Bát Chánh Đạo có hai phần là Định và Tuệ. Cả Định cũng rất quan trong và Tuệ cũng rất quan trọng. Chúng ta không thể xem thường phần nào. Nhưng rõ ràng, buổi đầu quí vị Giải Thoát bằng Định là chủ yếu.
Nếu quý vị tu tập Định tốt, không những ở trong tọa thiền, trong tọa thiền quý vị nhắm mắt lại, quý vị chỉ thấy chỉ nghe chỉ cảm nhận được những gì hiện tại và xung quanh lúc đó thôi, đặc biệt là nhắm mắt lại thì không tiếp xúc với con người nào cả.
Vì vậy, trong tọa thiền, quý vị vào được Định từ Sơ Thiền trở lên, là quý vị kinh nghiệm được giải thoát kinh nghiệm được tâm giải thoát. Lúc đó, quý vị sống chủ yếu với cái biết trực giác, cái biết vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt, cho nên không có lời nói, hành động phản ứng với bất kỳ đối tượng nào cả.
Nhưng khi quý vị mở rộng ra cuộc sống, quí vị tiếp xúc với công việc, với người này người kia, nếu quý vị thực hành tốt trong cuộc sống, thì mức độ thực hành trong cuộc sống tuy chỉ đạt đến Sơ Thiền, nhưng chứng ngộ của quí vị nó cao hơn khi ngồi thiền.
Nếu như thực sự trong cuộc sống, khi quý vị tiếp xúc với nhiều đối tượng, mà quý vị vẫn có chánh niệm về thân và quí vị đạt Sơ Thiền, thì lúc đó quý vị vẫn kinh nghiệm được giải thoát.
Rõ ràng so sánh trạng thái ngồi thiền cũng là giải thoát, nhưng sự việc được giải thoát là nó ít ỏi hơn so với sự việc được giải thoát khi quý vị sống trong đời. Cho nên, mức độ đó trong cuộc sống thực hành Định trong cuộc sống rất quan trọng, nó thể hiện mức độ thân chứng của từng người, nó thể hiện kết quả tu tập của từng người.
Và giải thoát được, chấm dứt được bao nhiêu phần trăm phiền não nó không phụ thuộc vào việc ngồi thiền, tọa thiền được nhiều trong ngày, mà phụ thuộc vào sự thực hành trong các tư thế tiếp xúc với cuộc sống.
Cho nên, nếu quý vị thấy đây là một trường hợp một cái xẩy ra có nhiều người tọa thiền rất tốt, có thể tọa thiền 7-8 tiếng đồng hồ một ngày, lúc đó an trú giải thoát. Nhưng hết cái đó ra cuộc sống, thì thực hành lại rất kém, cái sân cũng không giảm thiểu được bao nhiêu. Thành ra, thực hành trong cuộc sống nó quan trọng hơn nhiều về Định để kinh nghiệm giải thoát.
Đương nhiên, quý vị cũng hiểu được Định đưa đến tâm giải thoát, nhưng chỉ đối với những đối tượng trung bình hoặc kha khá một chút thôi. Còn với những đối tượng và trường hợp khốc liệt, thì Định không đủ để giải thoát.
Tu TUỆ mới giải quyết được những vấn đề khốc liệt
Đương nhiên, giai đoạn đầu, người thực hành phải thực hành Định cho tốt để kinh nghiệm tâm giải thoát, rồi mới tiến tới Tuệ giải thoát. Đương nhiên Tuệ giải thoát là Tuệ là điều rất khó, khó thẩm thấu, chỉ dành cho số ít người.
Quý vị thấy rằng phải qua phần Định, thực hành phần Định một phần nào đó rồi mới có thể tiếp thu Tuệ được. Cho nên, có một số người chia sẻ trên nhóm Tứ niệm xứ Gosinga, khóa ở chùa Long Hưng có một số người chia sẻ giai đoạn sau họ rất thành công, rất thẩm thấu cả Định và Tuệ, nhưng hai, ba ngày đầu học thì họ không tiếp thu được gì cả, thậm chí còn coi thường, còn thấy rằng nó hay là những cái dạy cho trẻ con.
Cho nên, quí vị thấy phần Định rất quan trọng, nó có thể giúp người đó dần dà đi vào thẩm thấu phần Tuệ. Nhưng phần Tuệ mới giải quyết được những phần khốc liệt. Có thể người tu Định rất tốt, nhưng tiếp xúc với cuộc sống, những trường hợp khốc liệt vẫn cãi nhau, vẫn sân si rất nhiều, bởi vì phần Tuệ chưa tốt.
Phần Tuệ rất nhiều kiến thức phải không nào? Nhưng quý vị thấy, cho dù nhiều như thế nào, thì mục đích của việc tu này là đoạn trừ tham sân si.
Quý vị thấy rằng, tham là tham những đối tượng dễ chịu, là những đối tượng vừa ý. Sân là sân đối với đối tượng khó chịu, là những đối tượng bất như ý. Và Si là đối tượng thứ 3, đối tượng trung tính, không vừa ý cũng không bất như ý.
Thế thì tu, cái cốt lõi và cái tối hậu là đoạn trừ tham sân si. Nhưng để đoạn trừ tham sân si, quý vị biết rằng tham sân si là do vô minh, do hiểu biết sai, do chấp ngã đưa đến phát sinh tham, hoặc sân, hoặc si.
CỐT LÕI của tu tập giáo lý Phật là LÝ DUYÊN KHỞI
Vậy thì, cốt lõi của sự tu tập này, của giáo lý này chính là Lý Duyên Khởi.
Quí vị có thể rằng không nắm vững được nhiều cái khác, nhưng riêng Lý Duyên Khởi, quý vị nắm vững, quí vị thấu suốt và quí vị thân chứng, thì quý vị giải quyết được mọi vấn đề. Quý vị phải thấu suốt Lý Duyên Khởi, tức là hiểu được cả vô minh và đặc biệt là minh về Lý Duyên Khởi.
Quý vị hiểu được Lý Duyên Khởi là tất cả sự vật hiện tượng đều là do duyên khởi lên, cụ thể là do hai nhân tương tác với nhau mới phát sinh ra các sự vật hiện tượng đó. Quý vị thấu suốt điều này không chỉ bằng nghe giản, quan sát một số hiện tượng. Khi quý vị thấu suốt Lý Duyên Khởi, quý vị quan sát bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng thấy đó là duyên khởi, do hai nhân tương tác với nhau mà phát sinh.
Khi nào quý vị trong cuộc sống, quí vị khám phá Duyên Khởi quí vi khám phá mọi sự vật hiện tượng, những gì quý vị thấy, nghe, cảm nhận hàng ngày, mà quí vị thấy ra nó do hai nhân tương tác với nhau phát sinh ra nó, kể cả chiều thuận và chiều nghịch, thì quý vị đã thấu suốt được Duyên Khởi. Quý vị khẳng định được rằng sự vật hiện tượng là do duyên khởi thôi, do hai nhân tương tác với nhau mà phát sinh.
Thế thì do duyên khởi đó, mà quý vị kết luận được rằng các sự vật hiện tượng là vô thường, các sự vật hiện tượng là vô chủ, vô sở hữu. Cái này là một điều đặc biệt, quí vị thấy trong kinh điển hay bất kỳ người nào nói, đều nói các pháp là vô thường, vô ngã. Nhưng hỏi lại họ, vì sao các pháp lại vô thường, vì sao các pháp là vô ngã thì không ai nói được.
Chỉ thấu suốt Duyên Khởi mới giải thích được vì sao các pháp vô thường
Quý vị thấy rằng, trong kinh điển và trong các chú giải không ai nói vì sao nó vô thường, chỉ nói vô thường thôi. Hoặc nói bây giờ phải thấy các pháp là vô thường, các pháp là khổ, các pháp là vô ngã. Nhưng vì sao các pháp vô thường, vì sao các pháp vô ngã thì không ai giải thích được. Chỉ có thấu suốt về Duyên Khởi mới giải thích được vì sao nó vô thường, vì nó là duyên khởi.
Bởi vì, quí vị thấy rằng và vô thường, vô chủ, vô sở hữu, hay vô ngã là hệ quả của định lý duyên khởi. Như vậy, giải thích vì sao vô ngã là do các pháp đó là duyên khởi. Cho nên, khi quý vị hiểu được như vậy, quý vị giải thích thấu suốt được duyên khởi, thấu suốt được các sự vật là vô thường, các sự vật là vô chủ, vô sở hữu.
Và quý vị thấy rằng, những điều này có khả thi không, có làm được không? Quan sát các sự vật hiện tượng là Duyên khởi, cho nên Duyên khởi rồi thì kết luận nó là vô thường, kết luận nó là vô chủ, vô sở hữu, đó là hệ quả thôi.
Quý vị thấu suốt điều này giống như bảng cửu chương. Có thể bây giờ nói quý vị nhìn thấy 2 x 2 bằng 4 hay 4 x 4 bằng 16, quý vị đâu cần phải nghĩ. Nó tự động khởi lên khi người ta đọc “hai nhân hai là mấy”, tự động quý vị khởi lên. Thế thì quý vị cũng phải thuộc, thấu suốt Lý Duyên Khởi y như vậy.
Thế thì quí vị thấu suốt để làm gì? Quý vị thấy rằng, phản ứng của con người bình thường đối với đối tượng vừa ý thì Tham, đối với đối tượng bất như ý thì Sân, đối với đối tượng trung tính thì Si.
Thế thì bây giờ, nếu quý vị thấy một sự vật hiện tượng, cho dù đối tượng đó vừa ý, dễ chịu, thì đối với người bình thường, tham khởi lên liền. Nhưng khi quý vị nhìn thấy đối tượng dễ chịu đó, có phải quý vị như thuộc lòng bảng cửu chương, biết nó vô thường phải không? Nó giống như thuộc bảng cửu chương rồi, nhìn thấy nó vô thường.
Và đã nhìn thấy sự vô thường, thì nhìn thấy cái nguy hiểm. Không phải sự vật hiện tượng vô thường là nguy hiểm, mà nguy hiểm là ở chỗ nếu quý vị thích thú nó, sẽ nắm giữ nó, muốn nó tồn tại mãi mãi với mình. Vì vậy, tham ái đó là nguy hiểm. Bởi vì muốn nó tồn tại mãi mãi với mình, còn nó vô thường, đến khi nó mất đi, sầu bi khổ não sẽ khởi lên.
Tham ái sự việc Vô thường là Nguy hiểm
Cho nên, khi quý vị thấu suốt Duyên Khởi, thấu suốt Vô Thường, đặc biệt là thấu suốt Vô Thường thì phải thấu suốt là sự nguy hiểm. Không phải sự nguy hiểm của Vô Thường, mà là tham ái sự việc vô thường mới nguy hiểm, vì nó đưa đến khổ.
Thế thì như vậy, nếu quý vị đối với đối tượng như ý, khi thấu suốt Duyên Khởi, thấu suốt Vô Thường, lúc đó còn tham nữa không? Có còn tham đối tượng đó nữa không? Tham ái chấm dứt. Khi quý vị như học thuộc lòng như bảng cửu chương, lại biết nó vô thường, biết tham ái nó là nguy hiểm, thì làm gì có chuyện tham ái đó khởi lên được nữa. Cho nên, quý vị thấy rằng, thấu suốt Duyên Khởi, thấu suốt Vô Thường là đoạn tận được tham.
Cho nên quí hiểu rằng, tại sao có câu phàn nàn “đã biết vô thường sao còn phiền não?”. Đã biết vô thường sao còn phiền não, là bởi vì hiểu sai về vô thường, và hiểu sai về nguy hiểm. Đối với các chú giải bây giờ và thậm chí trong kinh điển, cho rằng vô thường là nguy hiểm. Còn sự giác ngộ của Đức Phật là tham ái với sự việc Vô Thường mới là nguy hiểm.
Cho nên, trong kinh điển có lặp đi lặp lại: “Này các Tỳ kheo, sắc là vô thường hay thường?”. “Bạch Thế Tôn, sắc là vô thường”. “Cài gì Vô thường là khổ hay là lạc?”. “Cái gì vô thường là khổ”. Thì có phải vô thường là nguy hiểm không? Cho nên, hiểu vô thường là nguy hiểm, nên vẫn cứ phiền não.
Cho nên, quý vị thấy rằng, nếu thấu suốt Duyên Khởi, thấu suốt Vô Thường, thì khi nhìn thấy đối tượng vừa ý, là cái hiểu biết về vô thường và cái hiểu biết về sự nguy hiểm sẽ xuất hiện nhanh chóng, đưa đến không còn tham đối với đối tượng.
Và nếu đối tượng là bất như ý, thì người đời, sống bởi tư tưởng làm chủ, tư tưởng “sở hữu”. Cho rằng đối tượng vừa ý này là mình điều khiển được, tư tưởng điều khiển, làm chủ, mình điều khiển được nó, mình làm chủ được nó, cho nên vừa ý với nó. Còn đối tượng bất như ý có nghĩa là nó trái ngược với tư tưởng điều khiển của mình, mình không điều khiển, không làm chủ được nó, nó trái với tư tưởng làm chủ tư tưởng điều khiển, cho nên sân mới khởi lên.
Thấu suốt Lý Duyên Khởi, thấu suốt Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu sẽ đưa đến chấm dứt tham sân si
Vì vậy, khi một người thấu suốt Lý Duyên Khởi, thấu suốt Vô Chủ, tất cả sự vật đó là vô chủ, vô sở hữu, khi mà thấy sự việc đó, người kia là bất như ý. Còn vị thấu suốt Lý duyên khới, biết nó không thể làm chủ, không thể điều khiển được nó, thì lúc đó còn bất như ý với nó nữa không? Không còn sân với nó nữa. Cho nên, quý vị thấy rằng, thấu suốt Duyên Khởi, thấu suốt Vô Chủ, Vô Sở Hữu thì không còn sân với các đối tượng bất như ý.
Thế như vậy, quý vị thấy rằng thấu suốt Lý Duyên Khởi, thấu suốt Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu sẽ đưa đến chấm dứt tham, chấm dứt sân, đúng không?. Và khi quý vị đã chấm dứt tham, thì còn đi tìm kiếm đối tượng dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính nữa không? Không Tham thì không đi tìm kiếm nữa, nên lúc đó Si cũng chấm dứt.
Thế như vậy, quý vị thấy rằng chỉ cần quý vị Tuệ tri Lý Duyên Khởi, Tuệ tri Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu là quý vị có thể đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, đúng không?. Cho nên Đức Phật mới nói rằng: “Ai thấy Lý Duyên Khởi là người đó thấy Pháp, là người đó thấy Ta”.
Vì vậy, quý vị thấy, ở 2600 năm trước, không có những kiến thức như ngày nay. Ngày nay, quý vị phải học rất nhiều kiến thức, rất nhiều điều mà phải là kiến thức ngày nay. Nhưng 2600 năm trước, đã có những kiến thức đó rồi. Quý vị thấy rằng, chỉ cần Tuệ tri Lý Duyên Khởi, Tuệ tri Vô Thường, Vô Ngã là có thể là đoạn tận tham sân si, có thể giải thoát.
Cho nên, quý vị có thể có một số kiến thức, quý vị có thể nắm vững, thấu suốt. Nhưng quý vị đi vào cốt lõi là Tuệ tri Lý Duyên Khởi, Tuệ tri Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu là quý vị đoạn trừ tham, đoạn trừ sân, đoạn trừ si, lúc đó là hoàn thành việc của mình.
Lý Duyên Khởi công cụ thanh lọc Vô minh
Cho nên, nếu quý vị tu tập rất nhiều, nhưng không nắm vững Lý Duyên Khởi, thì kể cả những kiến thức là quí vị thực hành đó cũng không thanh lọc được chính cái dụng cụ để thanh lọc những tri thức, kinh nghiệm trong kho chứa là Lý Duyên Khởi này.
Cho nên, ở thời 2600 năm trước, chỉ có kiến thức là 100. Còn bây giờ kiến thức 300. Thế nhưng, lúc đó cũng chỉ dùng Lý Duyên Khởi để thanh lọc 100 kiến thức đó, đoạn trừ tham sân si. Bây giờ có 300 kiến thức, cũng chỉ dùng Lý Duyên Khởi để thanh lọc 300 kiến thức này thôi.
Cho nên, trong đời sống hàng ngày, trong sự tu tập hàng ngày, quý vị phải đi sâu vào Lý Duyên Khởi. Lý Duyên Khởi cũng giúp quý vị biết được rằng căn trần tiếp xúc mới phát sinh thọ tưởng. Mà thực tại này là cảm giác, có phải xuất phát từ Duyên Khởi không?
Quý vị thấy rằng, cái vô minh cho rằng thực tại, những sự việc đang xảy ra này là thế giới, là thế giới vật chất sẵn có, luôn luôn có, theo duy vật, hoặc do Chúa tạo ra. Chỉ có Đức Phật phát hiện ra là sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh sáu thọ đúng không?. Đây chính là Lý Duyên Khởi phải không?.
Quí vị thấy trong kinh điển nói Lý Duyên Khởi là do duyên vô minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên thức mà có danh sắc, vân vân… Thực chất thì cũng là Đức Phật chế chữ “duyên”. Nhưng sau này không hiểu, dùng sai, cái chữ “Duyên Khởi” là một chữ rất đặc biệt. Đức Phật không dùng nói là “nhân quả”, mà dùng từ “Lý Duyên Khởi”, chứ không nói “Lý Nhân Quả”. “Nhân quả” là theo cách hiểu bình thường, còn “Duyên Khởi” là một cái đặc biệt.
Vì vậy, quý vị lưu ý rằng trí tuệ rất khó cho tất cả mọi người, chỉ dành cho một số ít người có trí. Nhưng nền tảng của trí tuệ ở đây là Lý Duyên Khởi.
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=29LaBkzc1zQ