Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Tứ Thánh Đế
Mở đầu:
Bài giảng tập trung vào việc tuệ tri Khổ đế và Tập đế thông qua chánh tư duy, phân biệt giữa hiểu biết vô minh và hiểu biết đúng sự thật về khổ và nguyên nhân của khổ, nhằm đạt được sự giác ngộ và chấm dứt khổ đau.
Thân bài:
- Phân biệt hai loại hiểu biết về khổ và nguyên nhân của khổ:
- 1.1. Hiểu biết không đúng sự thật (Vô minh, Tà kiến):
- 1.1.1. Nguồn gốc: Dựa trên nguyên lý nhị nguyên tâm vật, coi khổ và nguyên nhân khổ thuộc về thế giới vật chất ngoại cảnh.
- 1.1.2. Biểu hiện của khổ: Khổ sẵn có trong hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ (nghèo đói, bệnh tật, thiếu thốn, thiên tai, áp bức).
- 1.1.3. Nguyên nhân của khổ: Từ những hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ bên ngoài.
- 1.1.4. Hậu quả: La trời trách đất, oán thán, đổ lỗi, giành giật vì cho rằng khổ do đối tượng bên ngoài gây ra.
- 1.2. Hiểu biết đúng sự thật (Minh, Trí tuệ, Giác ngộ):
- 1.2.1. Quan sát lộ trình tâm Bát Tà Đạo:
- Căn trần tiếp xúc phát sinh thọ tưởng, tà niệm, tà tư duy, ý thức tà tri kiến.
- Tiếp đến là tham, sân, si, tà định, dục, tà tinh tấn, phi như lý tác ý, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, khổ vui khởi lên.
- 1.2.2. Bản chất của khổ: Khổ thuộc về tâm, không phải thế giới ngoại cảnh.
- 1.2.3. Bản chất của nguyên nhân khổ: Tham, sân, si do tà tri kiến khởi lên, cũng thuộc về tâm, không phải thế giới ngoại cảnh.
- 1.2.4. Sơ đồ tóm tắt về các loại khổ và nguyên nhân:
- Hoại khổ:
- Khi tâm biết ý thức xác định đối tượng dễ chịu, cho rằng có hạnh phúc, sẽ mang hạnh phúc đến, chấm dứt khổ.
- Tham khởi lên, ràng buộc với đối tượng.
- Do ràng buộc phát sinh sầu, bi, khổ, não.
- Nguyên nhân: Tham.
- Khổ khổ:
- Khi tâm biết ý thức xác định đối tượng khó chịu, cho rằng có khổ, sẽ mang đến khổ.
- Sân khởi lên, ràng buộc với đối tượng.
- Do ràng buộc phát sinh khổ khổ.
- Nguyên nhân: Sân.
- Hành khổ:
- Khi tâm biết ý thức tà kiến xác định đối tượng trung tính, cho rằng không có hạnh phúc, không khổ đau, không chấm dứt khổ.
- Si khởi lên, tìm kiếm đối tượng dễ chịu để thay thế.
- Do ràng buộc với sự tìm kiếm phát sinh hành khổ.
- Nguyên nhân: Si.
- Hoại khổ:
- 1.2.5. Kết luận về bản chất của khổ và nguyên nhân: Hoại khổ, khổ khổ, hành khổ và nguyên nhân của chúng (tham, sân, si) đều thuộc về tâm, phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo.
- 1.2.1. Quan sát lộ trình tâm Bát Tà Đạo:
- 1.1. Hiểu biết không đúng sự thật (Vô minh, Tà kiến):
- Sự bình đẳng của nhân loại trước khổ:
- 2.1. Mọi người (già, trẻ, giàu, nghèo, ngu, trí, mọi dân tộc, tôn giáo) đều trải qua:
- Đối diện đối tượng dễ chịu: Tham khởi lên, ràng buộc, phát sinh hoại khổ.
- Đối diện đối tượng khó chịu: Sân khởi lên, ràng buộc, phát sinh khổ khổ.
- Đối diện đối tượng trung tính: Si khởi lên, tìm kiếm đối tượng dễ chịu, ràng buộc, phát sinh hành khổ.
- 2.2. Trừ các bậc thánh giác ngộ, tất cả nhân loại đều bình đẳng với hoại khổ, khổ khổ, hành khổ.
- 2.1. Mọi người (già, trẻ, giàu, nghèo, ngu, trí, mọi dân tộc, tôn giáo) đều trải qua:
- Phân loại và số lượng các loại khổ:
- 3.1. Sáu lộ trình tâm và 18 cảm thọ:
- Sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh sáu loại cảm thọ, mỗi loại có ba tính chất (lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ) => 18 cảm thọ.
- Do tham, sân, si khởi lên từ 18 cảm thọ này phát sinh 18 cái khổ tâm.
- 3.2. Khổ thân và Khổ tâm:
- Năm lộ trình tâm (mắt, tai, mũi, lưỡi, ý) phát sinh 15 cảm thọ và 15 khổ tâm do tham, sân, si.
- Lộ trình tâm thân với xúc trần:
- Ba khổ tâm do tham (với lạc thọ), sân (với khổ thọ), si (với bất khổ bất lạc thọ).
- Một khổ thân: Khi thân tiếp xúc xúc trần phát sinh cảm giác khó chịu, khổ thọ trên thân (ví dụ: nóng, lạnh quá mức).
- Tổng cộng: 18 khổ tâm (do tham, sân, si) + 1 khổ thân = 19 cái khổ.
- 3.3. Tỷ lệ các loại khổ:
- Khổ thân (do hoàn cảnh sống): Chiếm 5-10% nỗi khổ của nhân loại. Có thể chấm dứt bằng cách thay đổi hoàn cảnh (khoa học).
- Khổ tâm (do tham, sân, si): Chiếm 90-95% nỗi khổ của nhân loại. Khoa học không thể giải quyết.
- 3.1. Sáu lộ trình tâm và 18 cảm thọ:
- Chấm dứt Tham Sân Si là nguyên nhân của khổ:
- 4.1. Kiến thức khoa học chỉ giảm thiểu 5-10% nỗi khổ (khổ thân).
- 4.2. Để chấm dứt 90-95% nỗi khổ (khổ tâm), cần học và thực hành Bát Chánh Đạo.
- 4.3. Thực hành Tuệ tri Khổ Đế và Tập Đế:
- Quán cả hai chiều hiểu biết (vô minh và đúng sự thật).
- Siết chặt răng lưỡi, chủ tâm cảm giác nơi răng lưỡi, quán thân vào định.
- Chuyển niệm sang quán pháp nơi pháp để tuệ tri Khổ Đế và Tập Đế.
- Chánh tư duy liên tục để hiểu biết đúng sự thật về khổ và nguyên nhân khổ trở thành thường trực.
- 4.4. Lợi ích của Tuệ tri:
- Khi cảm nhận khổ, biết khổ là tâm, nguyên nhân là tham si nội tâm, không đổ lỗi cho ngoại cảnh.
- Không còn la trời trách đất, oán thán, tức giận, đổ lỗi.
- Khổ sẽ không khởi lên tiếp theo.
- 4.5. Thực hành trong thiền hành:
- Quán thân: Ghi nhận, an trú tâm biệt tỉnh giác, kinh nghiệm không thích ghét, không khổ vui, tâm giải thoát.
- Quán thọ: Thấy, nghe, cảm nhận đối tượng là thọ, là tâm, không phải cảnh. Kinh nghiệm không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú Tuệ Giải Thoát.
Kết luận:
Bài giảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuệ tri đúng sự thật về Khổ và nguyên nhân của Khổ (Tập đế) là do tâm tham, sân, si, chứ không phải từ ngoại cảnh. Việc thực hành chánh tư duy và Bát Chánh Đạo giúp chấm dứt phần lớn khổ đau, dẫn đến tâm giải thoát và Tuệ Giải Thoát.
Sư Nguyên Tuệ Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Tứ Thánh Đế
Quý vị tiếp tục tọa thiền với chánh niệm, nhớ đến tích cực chủ tâm quán sát pháp nơi pháp. Trong thời tọa thiền này, quý vị chánh tư duy để tuệ tri về khổ, tuệ tri về nguyên nhân khổ, hay còn gọi là Khổ đế và Tập đế.
Quý vị phải chánh tư duy để hiểu biết cả hai loại hiểu biết về khổ và nguyên nhân của khổ. Loại hiểu biết thứ nhất là hiểu biết không đúng sự thật, gọi là vô minh, tà kiến về khổ, về nguyên nhân khổ của nhân loại, của phàm phu.
Loại hiểu biết thứ hai là hiểu biết đúng sự thật về khổ, về nguyên nhân khổ, gọi là minh, là trí tuệ, là giác ngộ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ và thuyết giảng.
Trước tiên, quý vị chánh tư duy để hiểu biết đúng sự thật. Hiểu biết của nhân loại về khổ, nguyên nhân của khổ là do hiểu biết theo nguyên lý nhị nguyên tâm vật. Đối tượng được biết là thế giới vật chất ngoại cảnh.
Vì vậy, khổ và nguyên nhân của khổ thuộc về thế giới ngoại cảnh. Cụ thể, khổ sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có trong những hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ như nghèo đói, bệnh tật, thiếu thốn tiền bạc, lạc khẩu, bị thiên tai, lũ lụt, bị áp bức, bất công, v.v.
Những hoàn cảnh khó chịu đó là trong đó có khổ. Ai rơi vào những hoàn cảnh đó đều bị khổ của những hoàn cảnh đó chi phối. Nguyên nhân của khổ là từ những hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ đó mà đến với con người.
Vì vậy, khi con người cảm nhận cái khổ thì la trời trách đất, oán thán người này người kia, đổ lỗi cho người nọ người kia, giành giật đối tượng này đối tượng kia. Vì sao? Vì họ cho rằng khổ là từ những đối tượng đó mà đến với mình, nguyên nhân của khổ là do những đối tượng đó gây ra cho mình.
Quý vị phải tuệ tri cái hiểu biết vô minh đó bằng cách quan sát các hiện tượng thực tế để thấy rằng nhân loại này hiểu khổ và nguyên nhân của khổ từ thế giới ngoại cảnh mà đến với mình là như vậy.
Quý vị lại phải quan sát để hiểu biết đúng sự thật về khổ, đúng sự thật về nguyên nhân khổ. Quý vị hãy quan sát lộ trình tâm bát tà đạo.
Quý vị thấy rằng căn trần tiếp xúc phát sinh đồng thời thọ tưởng, tiếp đến là tà niệm, tà tư duy khởi lên cái biết ý thức tà tri kiến. Rồi tiếp đến tham, sân, si, tà định, dục, tà tinh tấn, phi như lý tác ý, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, khổ vui khởi lên như vậy.
Quý vị thấy rằng căn trần là thế giới vật chất ngoại cảnh. Căn trần tiếp xúc phát sinh lộ trình tâm bát tà đạo lúc đó mới khởi lên khổ. Như vậy, khổ là thuộc về tâm chứ không phải thuộc về thế giới ngoại cảnh.
Nguyên nhân của khổ là tham, sân, si do tà tri kiến khởi lên, nó cũng là tâm chứ không phải thuộc về thế giới ngoại cảnh. Đặc biệt, quý vị phải nhớ được, thuyết minh được sơ đồ tóm tắt như thế này:
Khi tâm biết ý thức xác định đối tượng đó là dễ chịu thì do tâm biết ý thức cho rằng trong đối tượng dễ chịu này có hạnh phúc, nó sẽ mang hạnh phúc đến cho ta, nó sẽ chấm dứt khổ cho ta, cho nên tham khởi lên.
Do tham mới ràng buộc với đối tượng đó. Do ràng buộc phát sinh sầu, bi, khổ, não. Khổ đó gọi là hoại khổ. Nếu tâm biết ý thức xác định đối tượng đó là khó chịu thì cũng hiểu biết rằng trong đối tượng này có khổ, nó sẽ mang đến khổ cho ta.
Vì vậy, phát sinh sân. Do sân mà ràng buộc với đối tượng đó. Do ràng buộc phát sinh khổ khổ. Còn nếu tâm biết ý thức tà kiến xác định đối tượng đó là trung tính thì cũng hiểu biết rằng trong đối tượng này không có hạnh phúc, không có khổ đau.
Nó không làm ta khổ nhưng nó cũng không mang hạnh phúc đến cho ta, không chấm dứt khổ cho ta. Chỉ có đối tượng dễ chịu mới mang hạnh phúc đến cho ta, mới chấm dứt khổ cho ta. Cho nên phát sinh tâm hành si đi tìm kiếm đối tượng dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính đó.
Do si khởi lên tìm kiếm như vậy cho nên ràng buộc với đối tượng. Do ràng buộc mới phát sinh hành khổ. Như vậy, quý vị thấy hoại khổ, khổ khổ và hành khổ là thuộc về tâm chứ không phải thuộc về thế giới ngoại cảnh.
Nguyên nhân của hoại khổ là tham, nguyên nhân của khổ khổ là sân, nguyên nhân của hành khổ là si. Nó cũng là tâm chứ nó không phải là thuộc về thế giới ngoại cảnh. Như vậy, quý vị phải tuệ tri đúng sự thật.
Tuệ tri tức là hiểu biết đúng sự thật khổ và nguyên nhân của khổ nó là thuộc về tâm chứ không thuộc về thế giới ngoại cảnh, nó phát sinh trên lộ trình tâm bát tà đạo. Rồi thì quý vị phải quan sát, phải tuệ tri rằng tất cả nhân loại, dù là già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, ngu, trí, dù là thuộc dân tộc, tôn giáo nào.
Hễ đối diện với đối tượng dễ chịu thì tham khởi lên, ràng buộc với đối tượng đó và phát sinh hoại khổ. Hễ đối diện với đối tượng khó chịu thì sân khởi lên, ràng buộc với đối tượng đó làm phát sinh khổ khổ.
Và hễ đối diện với đối tượng trung tính thì si khởi lên tìm kiếm đối tượng dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính, do đó ràng buộc với sự tìm kiếm đó và do ràng buộc mà phát sinh hành khổ.
Thế thì tất cả nhân loại đều có hoại khổ, khổ khổ, hành khổ như vậy. Mọi người, trừ các bậc thánh là giác ngộ, thì đều có hoại khổ, khổ khổ, hành khổ và như vậy đều bình đẳng với khổ.
Một điểm thứ ba mà quý vị phải quan sát kỹ càng đó là quý vị thấy rằng sáu lộ trình tâm khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì đều phát sinh sáu loại cảm thọ. Nhưng mỗi loại cảm thọ đó thì theo tính chất có ba loại: lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.
Như vậy, sáu lộ trình tâm sẽ phát sinh 18 cảm thọ. 18 cảm thọ này thì hoặc là tham, hoặc là sân, hoặc là si khởi lên cho nên phát sinh 18 cái khổ. Và như vậy, 18 cái khổ này do tham, do sân, do si mà khởi lên cho nên cái khổ đó ta tạm xếp nó là khổ tâm.
Nhưng trong sáu lộ trình tâm này, năm lộ trình tâm mắt tiếp xúc với sắc, tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị, ý với pháp, năm lộ trình tâm này phát sinh 15 cảm thọ và do tham, sân, si phát sinh 15 cái khổ.
Riêng lộ trình tâm thân với xúc trần thì ngoài ba cái khổ do tham, sân, si khởi lên (tham đối với lạc thọ, sân đối với khổ thọ, si đối với bất khổ bất lạc thọ) có ba cái khổ đó.
Nhưng ngoài ba cái khổ đó thì trong trường hợp thân tiếp xúc với xúc trần phát sinh lạc thọ thì đó không phải là khổ thọ trên thân. Phát sinh bất khổ bất lạc thọ thì đó không phải là khổ thọ trên thân.
Mà khi thân tiếp xúc với xúc trần phát sinh một cảm giác khó chịu, một khổ thọ thì đó là cái khổ phát sinh nơi thân. Và như vậy, lộ trình tâm thứ năm này có bốn cái khổ. Ba cái khổ do tham, sân, si là thuộc về khổ tâm, còn một cái khổ trên thân đó chúng ta gọi tạm gọi là khổ thân.
Như vậy thì sáu lộ trình tâm này phát sinh 18 cái khổ tâm và cộng thêm một cái khổ thân. Như vậy, tổng những cái khổ mà nhân loại phải cảm nhận, phải chịu đựng là 19 cái tất cả.
Trong đó, 18 cái khổ do tham, sân, si mà khởi lên thuộc về khổ tâm. Cái thứ 19 là cái khổ nơi thân do môi trường sống, do xúc trần làm phát sinh cảm giác khó chịu trên thân, đó gọi là khổ thân.
Ví dụ như trời quá nóng, không khí quá nóng hay quá lạnh, tiếp xúc về thân phát sinh một khổ thọ thì đó là một cái khổ thân. Nhưng cái khổ thân đó phát sinh thì sân nó khởi lên và phát sinh một cái khổ khổ thuộc về tâm nữa.
Như vậy, quý vị thấy rằng tổng cái khổ mà nhân loại phải chịu đựng là 19 cái tất cả. Trong đó, 18 cái là khổ tâm do tham, sân, si, còn một cái là khổ thân do hoàn cảnh sống gây ra.
Chúng ta không phủ nhận cái khổ thân này nhưng nó cũng là cảm giác khó chịu, nó cũng là tâm chứ không phải là thế giới vật chất. Quý vị thấy sau này quý vị học thì khổ thân có thể thay đổi hoàn cảnh thì chấm dứt được nó.
Và tất cả những kiến thức của nhân loại học hỏi được, những kinh nghiệm mà nhân loại thực hành được của khoa học truyền dạy thì nó làm thay đổi hoàn cảnh. Nó chỉ chấm dứt được cái khổ thân, một trong 1/19 cái nỗi khổ của nhân loại thôi.
Nó chiếm từ 5 đến tối đa là 10% cái nỗi khổ của nhân loại. Còn nỗi khổ tâm do tham, sân, si khởi lên nó chiếm từ 90 đến 95% cái nỗi khổ của nhân loại. Thì cái này, những tri thức mà nhân loại đã học hỏi, những kiến thức mà khoa học đã phát minh ra không thể nào đưa đến.
Chấm dứt Tham Sân Si là nguyên nhân của khổ
Chúng ta không phủ nhận các kiến thức khoa học. Tuy nhiên, những kiến thức đó chỉ giúp nhân loại giảm thiểu tối đa từ 5 đến 10% nỗi khổ.
Còn 90 đến 95% nỗi khổ do tham sân si phát sinh. Để chấm dứt được phần lớn nỗi khổ này, quý vị phải học Bát Chánh Đạo.
Vì vậy, bây giờ quý vị hãy quán để Tuệ tri Khổ Đế và Tập Đế. Quý vị quán cả hai chiều, cả hai loại hiểu biết như vậy.
Đương nhiên, quý vị nhớ siết chặt răng lưỡi, chủ tâm cảm giác nơi răng lưỡi. Lúc đầu, hãy quán thân vào định cho vững chắc, an trú.
Sau đó, quý vị mới chuyển niệm sang quán pháp nơi pháp, tức là để Tuệ tri Khổ Đế và Tập Đế. Bây giờ quý vị thực hành.
Quý vị dừng lại, dừng lại tư thế tọa thiền và vẫn luôn luôn nhớ siết chặt răng lưỡi, chú tâm cảm giác nơi răng lưỡi. Để tự nhiên, quý vị vừa Chánh tư duy để Tuệ tri khổ, Tuệ tri nguyên nhân khổ.
Chữ “Tuệ tri” ở đây có nghĩa là hiểu biết đúng như thật. Tiếng Hán, “tri” là biết, “Tuệ” là trí tuệ, tức là biết với trí tuệ. Tiếng Việt là hiểu biết đúng như thật thì gọi là Tuệ tri.
Tuệ tri khổ, Tuệ tri nguyên nhân khổ. Quý vị phải thực hành liên tục. Quý vị Chánh tư duy trong thiền định, trong tọa thiền hoặc bình thường quý vị vẫn Chánh tư duy để cái hiểu biết đúng sự thật về khổ, về nguyên nhân của khổ nó trở thành cái hiểu biết thường trực của quý vị.
Nếu giả sử quý vị không tu tập Bát Chánh Đạo, lúc đó quý vị cảm nhận được khổ. Đối với người bình thường không tu tập, khi cảm nhận khổ rồi, họ la trời trách đất, oán thán người nọ người kia, tức giận người nọ người kia, đổ lỗi cho người này người kia.
Và đã như vậy thì ngay đó sầu bi khổ u não lại tiếp tục khởi lên. Còn nếu giả sử quý vị không tu tập Bát Chánh Đạo, lúc đó quý vị cảm nhận cái khổ.
Nhưng giả sử lúc đó quý vị nhớ được những điều mà quý vị tư duy hàng ngày, quý vị Tuệ tri khổ và nguyên nhân của khổ. Thì lúc đó quý vị biết rằng cái khổ mình cảm nhận đây nó là tâm.
Nguyên nhân của khổ là tham si thuộc nội tâm, chứ không phải thuộc về thế giới ngoại cảnh. Lúc đó quý vị đâu còn thấy đối tượng nào mang cái khổ này đến cho mình.
Quý vị sẽ không còn la trời trách đất, không còn oán thán, không còn tức giận, không còn đổ lỗi cho người này người kia. Và lúc đó cái khổ sẽ không khởi lên tiếp theo của quý vị nữa.
Bây giờ quý vị chuyển qua thiền hành. Thiền hành thì quý vị hoặc là quán thân, ghi nhận, ghi nhận, ghi nhận, an trú cái tâm biệt tỉnh giác để quý vị kinh nghiệm không thích ghét, không khổ vui với bất kỳ đối tượng nào, kinh nghiệm được tâm giải thoát.
Hoặc là quý vị quán thọ. Quý vị để tự nhiên thấy, nghe, cảm nhận đối tượng nào thì biết đó là thọ, biết nó là tâm chứ không phải là cảnh. Và quý vị cũng kinh nghiệm được không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy với bất kỳ đối tượng nào.
Quý vị kinh nghiệm được, an trú được Tuệ Giải Thoát. Bây giờ quý vị chuyển qua thiền hành.
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=UFynxfoxFuw
Tác giả: Thiền sư Nguyên Tuệ



