Sư Nguyên Tuệ Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Lý Duyên Khởi

Mở đầu: Bài giảng tập trung vào việc thực hành tuệ tri Lý Duyên khởi thông qua chánh tư duy, phân biệt giữa hiểu biết đúng và sai về quy luật nhân quả, từ đó dẫn đến sự giải thoát khỏi tham, sân, sầu bi khổ não.

Thân bài:

  1. Tuệ tri Lý Duyên khởi:
    1.1. Hiểu biết không đúng sự thật (Vô minh/Tà kiến):
    1.1.1. Quan điểm “một nhân sinh một quả, nhân biến đổi thành quả”:
    * Nhân chính biến đổi thành quả, có nhân phụ/duyên trợ giúp.
    * Hệ quả: Các pháp chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, dạng này sang dạng khác.
    * Không có pháp nào sinh ra hay diệt đi, chỉ là chuyển biến liên tục.
    * Các pháp tương tức tương nhập: nhân trong quả, quả trong nhân.
    * Quan điểm này là thường kiến (duy vật).
    1.1.2. Quan hệ “chủ nhân chủ sở hữu” giữa nhân và quả:
    * Ví dụ: quả mít của cây mít, ngọt của đường, mặn của muối.
    * Các pháp lệ thuộc, ràng buộc, nương nhau mà tồn tại.
    * Phát sinh cái ta, bản ngã là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp.
    * Quan điểm này là ngã kiến (tà kiến).
    1.1.3. Tổng kết về hiểu biết sai lầm:
    * Các bộ phái Phật giáo sau này bổ sung cũng không thoát khỏi thường kiến và ngã kiến.
    1.2. Hiểu biết đúng sự thật (Chánh kiến) về Lý Duyên khởi:
    1.2.1. Quy luật “hai nhân tiếp xúc nhau mới phát sinh quả”:
    * Sự tiếp xúc gọi là duyên.
    * Ví dụ: trống và dùi tiếp xúc phát sinh tiếng trống (Pháp Duyên khởi).
    * “Tiếp xúc nhau” là sự tương tác giữa hai nhân tố.
    * Ví dụ cụ thể: bàn tay và bàn tương tác phát sinh cảm giác (cứng/mềm, thô/mịn, nặng/nhẹ).
    * Cảm giác là do tương tác mà khởi lên, không phải do nhân biến đổi.
    1.2.2. Quy luật “hai nhân tương tác cùng diệt mới phát sinh quả”:
    * Phát sinh một hoặc nhiều quả.
    * Hệ quả: Các pháp sinh ra do tương tác, diệt đi do tương tác với pháp khác.
    * Trước khi sinh không ở đâu, sau khi diệt không về đâu.
    * Xuất hiện một lần duy nhất, không lặp lại (tính vô thường).
    1.2.3. Quan hệ giữa các pháp (Vô chủ vô sở hữu/Vô ngã):
    * Theo mặt thời gian: Nhân diệt quả sanh, quả không phụ thuộc nhân. Không có quan hệ chủ nhân chủ sở hữu.
    * Theo mặt không gian: Các pháp bình đẳng, không cái nào là chủ nhân chủ sở hữu của cái nào. Quan hệ tương tác rồi cùng diệt.
    * Kết luận: Các pháp là vô chủ vô sở hữu, không có cái ta/bản ngã là chủ nhân chủ sở hữu (vô ngã).
    1.3. Phân biệt Vô thường:
    1.3.1. Vô thường là sinh diệt:
    * Các pháp do duyên xúc mà sinh, do duyên xúc mà diệt.
    * Sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu.
    1.3.2. Không phải vô thường là biến đổi:
    * Hiểu biết “một nhân biến đổi thành quả” dẫn đến hiểu vô thường là biến đổi.
    1.4. Tính chất Vô chủ vô sở/Vô ngã:
    1.4.1. Không thể làm chủ, sở hữu, điều khiển, nắm giữ hay xua đuổi các pháp.
    1.4.2. Không có cái ta là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp.
    1.5. Ứng dụng trong cuộc sống:
    1.5.1. Chánh tư duy liên tục để thấy các pháp do duyên khởi (tương tác mà khởi lên, không phải nhân biến đổi).
    1.5.2. Ví dụ: Tương tác giữa người với người (thầy-trò, cha mẹ-con cái, vợ-chồng, mình-đối tác) phát sinh kết quả.
  2. Tương tác hai nhân và kết quả:
    2.1. Tính chất của kết quả:
    2.1.1. Kết quả không phụ thuộc vào bất kỳ nhân nào, độc lập, vô chủ, vô sở.
    2.1.2. Không thể điều khiển hay làm chủ kết quả.
    2.1.3. Tốt hay xấu là theo quy luật của nó, không ai làm chủ, điều khiển hay chịu trách nhiệm.
    2.2. Tư tưởng sai lầm của người đời:
    2.2.1. Tư tưởng làm chủ, sở hữu: Kết quả tốt là của mình (tự hào, thích thú).
    2.2.2. Khi thất bại: Đổ lỗi cho đối tác (tức giận, buồn khổ).
    2.3. Lợi ích của hiểu biết đúng về kết quả (Vô chủ vô sở):
    2.3.1. Thành công không vui mừng, kết quả xấu không giận dữ hay đổ lỗi.
    2.3.2. Không thích thú, không bực bội (không tham, không sân).
    2.3.3. Không có sầu bi khổ não.

Kết luận: Việc chánh tư duy và tuệ tri Lý Duyên khởi giúp hành giả nhận ra bản chất vô thường, vô ngã, vô chủ vô sở của các pháp. Từ đó, giải thoát khỏi sự ràng buộc của kết quả, không còn tham, sân, sầu bi khổ não trong cuộc sống hàng ngày.

Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Tứ Thánh Đế

Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Lý Duyên Khởi

Quý vị tiếp tục tọa thiền với chánh niệm, chủ tâm quán sát pháp nơi pháp. Đề mục của thời tọa thiền này là Tuệ tri Lý Duyên khởi.

Khi đã vào định, quý vị bắt đầu chánh tư duy về Lý Duyên khởi. Quý vị chánh tư duy về hai loại hiểu biết về Lý Duyên khởi.

Loại hiểu biết thứ nhất là hiểu biết không đúng sự thật về Lý Duyên khởi, gọi là vô minh hay tà kiến về Lý Duyên khởi. Hiểu biết đó là hiểu biết về quy luật nhân quả theo nguyên lý một nhân sinh ra một quả, nhân biến đổi thành quả.

Nếu có bổ sung thêm, thì nhân chính biến đổi thành quả, có các nhân phụ hoặc các duyên trợ giúp. Với hiểu biết về Lý Duyên khởi như vậy, sẽ đưa đến hệ quả là các sự vật hiện tượng (thuật ngữ Phật học gọi là các pháp) chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác.

Không có một sự vật hiện tượng nào sinh ra, cũng không có một sự vật hiện tượng nào diệt đi. Chúng chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác. Các sự vật hiện tượng, hay thuật ngữ Phật học gọi là các pháp, là tương tức tương nhập với nhau: nhân trong quả, quả trong nhân.

Tất cả các pháp ở trong một tổng thể không sinh ra cũng không diệt đi, mà chỉ là sự chuyển biến liên tục từ vật này sang vật khác, từ hiện tượng này sang hiện tượng khác. Quan điểm đó trong Phật giáo gọi là một tà kiến, gọi là thường kiến, và chính là quan điểm duy vật.

Không những các pháp chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác, không có pháp nào được sinh ra, không có pháp nào bị diệt đi, mà quan hệ giữa nhân và quả là quan hệ chủ nhân chủ sở hữu. Quan hệ giữa nhân và quả có cái chức ‘của’.

Ví dụ: quả mít là của cây mít, ngọt là của đường, mặn là của muối. Quan hệ các pháp luôn tồn tại cái chức ‘của’. Quan hệ đó là quan hệ chủ nhân chủ sở hữu, cũng đồng nghĩa là các pháp lệ thuộc vào nhau, ràng buộc vào nhau, nương nhau mà tồn tại.

Quan điểm đó làm phát sinh một cái ta, một cái bản ngã là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp. Trong Phật giáo, quan điểm đó gọi là ngã kiến, là một tà kiến.

Như vậy, quý vị phải quan sát hiểu biết của nhân loại, hiểu biết theo kiểu một nhân sinh ra một quả, nhân biến đổi thành quả. Cho dù các bộ phái Phật giáo sau này có bổ sung thêm nhân chính biến đổi thành quả có nhân phụ trợ giúp hay duyên trợ giúp, thì cũng đều đưa đến quan điểm thường kiến: các pháp biến đổi từ pháp này sang pháp khác, nhân biến đổi thành quả.

Quan điểm đó không thoát ra khỏi thường kiến, và không thể thoát ra khỏi tà kiến là ngã kiến. Quý vị hãy quan sát sự thật về Lý Duyên khởi là hai nhân tiếp xúc với nhau mới phát sinh quả. Sự tiếp xúc đó gọi là duyên.

Ví dụ: trống và dùi tiếp xúc với nhau mới phát sinh ra tiếng trống. Tiếng trống là do duyên giữa trống và dùi phát sinh ra, nên tiếng trống gọi là Pháp Duyên khởi. Quý vị phải hiểu chữ ‘duyên’ trong Pháp Duyên khởi là ‘tiếp xúc nhau’.

Nhưng chữ ‘tiếp xúc nhau’ đó cũng còn mơ hồ. Quý vị phải hiểu chữ ‘tiếp xúc nhau’ đó là sự tương tác giữa hai nhân tố với nhau. Sự tương tác giữa hai nhân tố với nhau gọi là duyên, và các pháp phát sinh là do duyên, nên gọi là Pháp Duyên khởi.

Quý vị quan sát cụ thể, ví dụ như bàn tay với cái bàn. Sự tương tác giữa bàn tay với cái bàn theo một kiểu thì phát sinh cảm giác cứng hay mềm. Nếu tương tác theo kiểu khác thì phát sinh cảm giác thô hay mịn. Nếu tương tác theo kiểu khác nữa thì phát sinh cảm giác nặng hay nhẹ.

Như vậy, cảm giác cứng mềm, thô mịn, hay nặng nhẹ là do tương tác mới khởi lên, do duyên khởi lên. Cho nên, pháp là do duyên khởi, chứ không phải do các nhân biến đổi mà thành. Đây là điểm đặc biệt quan trọng.

Không những quý vị quan sát các pháp là do hai nhân tương tác với nhau mà phát sinh, nên gọi là Pháp Duyên khởi, mà nó còn phải đảm bảo quy luật là hai nhân tương tác với nhau cùng diệt nó mới phát sinh ra quả. Phát sinh ra không những một quả mà có thể là nhiều quả.

Vì vậy, quý vị phải ghi nhớ, phải quan sát, phải tự mình chứng ngộ được Pháp Duyên khởi là hai nhân tương tác với nhau cùng diệt, nó phát sinh là một hay nhiều quả. Hệ quả của hiểu biết đúng sự thật đó là quý vị quan sát được các pháp do tương tác mà phát sinh, do tiếp xúc với nhau hay tương tác với nhau mà phát sinh.

Khi pháp đó phát sinh rồi, cũng là do nó tương tác hay tiếp xúc với pháp khác mà diệt đi. Cho nên, bất kỳ một pháp nào cũng sinh ra do duyên xúc mà phát sinh, cũng do duyên xúc mà diệt đi. Trước khi sinh ra, nó không ở đâu cả. Sau khi diệt đi, nó không về đâu cả.

Nó xuất hiện một lần duy nhất, không lặp lại bao giờ. Tính chất như vậy gọi là vô thường. Rồi quý vị quan sát quan hệ giữa các pháp, giữa nhân và quả, và quan hệ giữa quả đó với các pháp khác.

Nếu xét theo mặt thời gian, nhân diệt quả sanh, nên quả đó không phụ thuộc vào nhân nữa. Giữa nhân và quả không có quan hệ chủ nhân chủ sở hữu, nên các pháp là vô chủ vô sở hữu. Xét quan hệ theo mặt thời gian.

Xét theo mặt không gian, các pháp đều bình đẳng. Nó có duyên, tức là nó có tương tác với một pháp nào đó, nhưng hai pháp đó là bình đẳng, không cái nào là chủ nhân chủ sở hữu của cái nào. Quan hệ của chúng là tương tác với nhau rồi cùng diệt mới phát sinh các quả.

Vì vậy, theo chiều không gian, các pháp cũng là vô chủ vô sở hữu. Thế thì như vậy, quý vị hiểu được, tự chứng được hiểu biết đúng sự thật các pháp là vô chủ vô sở hữu, cũng đồng nghĩa là không có một cái ta, một cái bản ngã nào là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp. Thuật ngữ Phật học gọi là vô ngã.

Bây giờ quý vị tuệ tri quy luật nhân quả hay tuệ tri Lý Duyên khởi theo hai hiểu biết đó. Bây giờ quý vị vào định rồi, quý vị chuyển sang quán về Lý Duyên khởi. Bây giờ quý vị thực hành.

Quý vị dừng lại tứ thể tọa thiền. Quý vị đã thực hành để tuệ tri về Lý Duyên khởi, đó là hai nhân tố hay gọi là hai nhân tương tác với nhau rồi cùng diệt, nó mới phát sinh ra một hay nhiều quả. Các quả đó đều vô thường, nó sinh lên rồi nó diệt đi liền.

Trước khi sinh, nó không ở đâu cả. Sau khi diệt đi, nó cũng không về đâu cả. Tính chất đó gọi là vô thường. Vô thường nghĩa là sinh lên rồi diệt đi. Đã sinh lên rồi diệt đi như vậy, theo quy luật duyên khởi, thì sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu.

Cho nên, các pháp vô thường là các pháp sinh diệt, chứ không phải các pháp vô thường là biến đổi. Biến đổi là do hiểu biết một nhân biến đổi thành quả, nên hiểu vô thường là biến đổi. Còn khi quý vị hiểu biết đúng như thật quy luật nhân quả là hai nhân tiếp xúc với nhau cùng diệt nó mới phát sinh quả.

Cho nên, các pháp là do duyên xúc mà sinh, cũng do duyên xúc mà diệt. Vô thường là sinh diệt, chứ không phải vô thường là biến đổi. Đặc biệt, các pháp là vô chủ vô sở, có nghĩa là không thể làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều khiển được các pháp, không nắm giữ được nó, cũng không xua đuổi được nó.

Đó là tính chất vô chủ vô sở, đồng nghĩa là không có cái ta nào là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp, đó gọi là vô ngã. Thế thì quý vị không những trong tọa thiền mà trong cuộc sống hàng ngày, quý vị phải chánh tư duy liên tục để thấy các pháp là do duyên khởi.

Cho nên, từ Pháp Duyên khởi phải hiểu theo nghĩa chính xác nhất: các pháp là do duyên mà khởi lên, do tương tác mà khởi lên, chứ không phải do nhân biến đổi mà thành. Khi quý vị quán sát thường xuyên như vậy, chánh tư duy thường xuyên như vậy, quý vị sẽ ứng dụng nó ngay trong cuộc sống.

Nếu thô thiện, quý vị sẽ thấy rằng một người tương tác với người thứ hai nó mới phát sinh ra kết quả. Sự tương tác giữa thầy và trò, tương tác giữa cha mẹ và con cái, tương tác giữa chồng và vợ, tương tác giữa mình và đối tác, đó là sự tương tác.

2. Tương tác hai nhân và kết quả

Tương tác giữa hai nhân phát sinh kết quả. Kết quả này không phụ thuộc vào bất kỳ nhân nào, nó độc lập, vô chủ, vô sở. Do đó, không thể điều khiển hay làm chủ nó.

Quý vị sẽ thấy rằng tương tác như vậy có thể tốt hoặc xấu. Tuy nhiên, tốt hay xấu là theo quy luật của nó, không ai làm chủ, điều khiển hay chịu trách nhiệm về điều đó. Kết quả đó là vô chủ, vô sở.

Người đời thường có tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu. Họ cho rằng kết quả tốt đẹp là của mình, do mình làm ra, nên tự hào và thích thú. Khi thất bại, kết quả xấu, họ lại cho rằng đó là do đối tác làm ra, nên tức giận, buồn khổ.

Khi quý vị hiểu được tính chất vô chủ, vô sở của kết quả, nó không phải của ta cũng không phải của đối tác. Như vậy, thành công cũng không vui mừng, kết quả xấu cũng không giận dữ hay đổ lỗi cho đối phương.

Quý vị phải tu chánh tư duy thường xuyên như vậy để tuệ tri về lý duyên khởi. Điều này giúp cuộc sống của quý vị không bị ràng buộc bởi kết quả nữa. Cho dù kết quả đó tốt đẹp đến mấy cũng không thích thú, cho dù xấu đến mấy cũng không bực bội.

Không thích thú, không bực bội tức là không tham, không sân. Khi đó, sẽ không có sầu bi khổ não về những vấn đề đó.

Bây giờ, quý vị chuyển qua thiền hành. Trong thiền hành, quý vị không thể chánh tư duy được. Quý vị có thể quán thân để ghi nhận, ghi nhận để tuệ tri được tâm giải thoát. Hoặc quý vị quán thọ để tuệ tri được thọ giải thoát. Bây giờ quý vị chuyển qua thiền hành.

Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=gqF0uzSptnI

Tác giả: Thiền sư Nguyên Tuệ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *