Thiền Sư Nguyên Tuệ Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Diệt đế và Đạo đế
Mở đầu:
Bài giảng tập trung vào việc thực hành chánh tư duy để tuệ tri Diệt Đế và Đạo Đế, tức là hiểu biết đúng sự thật về khổ diệt và con đường dẫn đến khổ diệt. Mục đích là phân biệt giữa hiểu biết đúng như thật (Minh) và hiểu biết không đúng sự thật (vô minh, tà kiến) về hai chân lý này.
Thân bài:
- Phân biệt hai loại hiểu biết về khổ diệt và con đường khổ diệt
- Hiểu biết không đúng sự thật (Vô minh, Tà kiến) – Phàm phu
- Cơ sở của hiểu biết: Dựa trên cái biết nhị nguyên tâm vật, cho rằng thực tại là thế giới vật chất.
- Quan niệm về khổ và nguyên nhân khổ: Thuộc về thế giới vật chất.
- Quan niệm về sự chấm dứt khổ: Chỉ khi có hạnh phúc đầy đủ, khổ mới chấm dứt.
- Nơi tìm kiếm hạnh phúc: Trong thế giới vật chất ngoại cảnh.
- Cụ thể: Sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái.
- Hoàn cảnh tốt đẹp: Giàu có, khỏe mạnh, xinh đẹp, tiền bạc, danh tiếng, quyền lực.
- Con đường chấm dứt khổ: Thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi thế giới ngoại cảnh.
- Nơi tìm kiếm hạnh phúc: Trong thế giới vật chất ngoại cảnh.
- Ảnh hưởng đến quan niệm về Niết Bàn (Khổ diệt):
- Niết Bàn là cảnh giới tâm linh: Thường lạc ngã tịnh hoặc thường lạc vô ngã tịnh.
- Đặc điểm của Niết Bàn: Nơi chốn phúc lạc toàn vẹn, pháp phỉ sướng mãn, sung sướng tràn đầy, hạnh phúc vĩnh cửu, chân thật.
- Cơ sở của quan niệm này: Mặc định rằng chỉ khi có hạnh phúc đầy đủ, khổ mới chấm dứt.
- Ví dụ về tình yêu thương:
- Quan niệm: Có tình yêu thương thì có hạnh phúc, khổ không có mặt.
- Bản chất: Tình yêu thương đó là tham ái, dẫn đến ràng buộc, nắm giữ, và có thương thì có ghét.
- Lý luận sai lầm: Đạt được tình thương tuyệt đối (thương tất cả muôn vật, muôn loài) sẽ có hạnh phúc vĩnh cửu, khổ diệt.
- Gắn cho Đức Phật: Yêu thương tất cả mọi người vô điều kiện, nhờ đó có hạnh phúc tuyệt đối và khổ diệt.
- Kết luận về hiểu biết sai lầm: Niết Bàn vẫn là một nơi chốn, một cảnh giới, thuộc về thế giới ngoại cảnh (thế giới tâm linh).
- Hệ quả: Bị chi phối bởi thời gian, phải phấn đấu để đạt được sau này.
- Hiểu biết đúng như thật (Minh, Trí tuệ) – Do Đức Phật khám phá và truyền dạy
- Cơ sở của hiểu biết: Nguyên nhân của khổ là tham sân si.
- Tham sân si có mặt: Khổ có mặt.
- Tham sân si không có mặt: Khổ không có mặt.
- Quan niệm về khổ diệt (Niết Bàn):
- An trú tâm biết tỉnh giác: Tâm biết vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt (tâm biết tánh không).
- Đặc điểm: Không làm phát sinh tham sân si, không phát sinh khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
- Kinh nghiệm khổ diệt: Không thích ghét, không khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
- Khi quán thân, thọ, tâm, pháp: An trú tâm biết ý thức chánh tri kiến, hiểu biết đúng sự thật về đối tượng.
- Thực tại: Cảm thọ do căn trần tiếp xúc, là tâm, vô thường, vô chủ sở, có vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly.
- Kết quả: Không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy.
- Định nghĩa khổ diệt: Không có thích ghét, không có tham sân si, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
- An trú tâm biết tỉnh giác: Tâm biết vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt (tâm biết tánh không).
- Quan niệm về con đường khổ diệt (Đạo Đế):
- Bát Chánh Đạo: Con đường dẫn đến khổ diệt.
- Khi chánh niệm về thân: Khởi lên chánh tinh tấn, chánh định, tỉnh giác, kinh nghiệm khổ diệt.
- Khi chánh niệm về thọ, tâm, pháp: Khởi lên chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định, chánh tư duy, chánh tri kiến, như lý tác ý, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, kinh nghiệm khổ diệt.
- Bản chất của con đường: Con đường không có thích ghét, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
- Bát Chánh Đạo: Con đường dẫn đến khổ diệt.
- Cơ sở của hiểu biết: Nguyên nhân của khổ là tham sân si.
- Hiểu biết không đúng sự thật (Vô minh, Tà kiến) – Phàm phu
- Trạch pháp phân biệt hiểu biết đúng và sai về Khổ Diệt
- Mục đích: Phân biệt rõ ràng hai loại hiểu biết về Khổ Diệt và con đường Khổ Diệt.
- Thực hành Chánh tư duy: Để tuệ tri Khổ Diệt và con đường Khổ Diệt.
- Yêu cầu: Vào Định an trú vững chắc trước khi chánh tư duy.
- Sau khi tư duy: Dừng lại, an trú tỉnh giác, quay trở lại chánh niệm về thân.
- Thực hành Chánh niệm:
- Tứ thể tọa thiền: Siết chặt răng lưỡi, chủ tâm cảm giác răng lưỡi và toàn thân.
- Đề mục: Tuệ tri Khổ Diệt và con đường Khổ Diệt thông qua quán sát pháp nơi pháp.
- Mức độ tuệ tri: Tương ứng với mức độ thực hành Bát Chánh Đạo.
- Thực hành Thiền hành:
- Chánh niệm ghi nhận: Chánh niệm về hơi thở.
- Kết quả: Trí tuệ (Chánh kiến) khởi lên nhanh chóng, tuệ tri Khổ Diệt (không yêu thích, không chán ghét) và con đường Khổ Diệt (Bát Chánh Đạo khởi lên khi có chánh niệm).
Kết luận:
Bài giảng nhấn mạnh sự cần thiết của chánh tư duy để phân biệt giữa hiểu biết sai lầm và hiểu biết đúng đắn về Khổ Diệt và Đạo Đế. Khổ diệt không phải là một cảnh giới ngoại cảnh mà là trạng thái không còn tham sân si, không thích ghét, không khổ vui, đạt được thông qua việc thực hành Bát Chánh Đạo và an trú tâm biết tỉnh giác.
Thiền Sư Nguyên Tuệ Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Diệt đế và Đạo đế
Quý vị tiếp tục tọa thiền với chánh niệm, tích cực chú tâm quán sát pháp nơi pháp. Quý vị vừa thực hành chánh tư duy để Tuệ tri Khổ Đế và Tập Đế. Bây giờ, quý vị chánh tư duy để Tuệ tri Diệt Đế và Đạo Đế, hay nói theo tiếng Việt là để hiểu biết đúng sự thật khổ diệt và hiểu biết đúng sự thật về con đường khổ diệt.
Quý vị phải chánh tư duy để hiểu biết rằng có hai loại hiểu biết về khổ diệt và con đường khổ diệt. Loại hiểu biết thứ nhất là hiểu biết không đúng sự thật, gọi là vô minh, là tà kiến về khổ diệt và con đường khổ diệt của nhân loại, mà thuật ngữ Phật học gọi là Phàm phu.
Loại hiểu biết thứ hai là hiểu biết đúng như thật, gọi là Minh, là trí tuệ do Đức Phật khám phá và truyền dạy lại. Đối với loại hiểu biết thứ nhất, hiểu biết vô minh, tà kiến về khổ diệt và con đường khổ diệt dựa trên cái biết nhị nguyên tâm vật.
Cái biết này cho rằng thực tại là thế giới vật chất. Vì vậy, họ hiểu khổ và nguyên nhân khổ thuộc về thế giới vật chất. Sự chấm dứt khổ là như thế nào? Nhân loại cho rằng chỉ khi nào có hạnh phúc đầy đủ, lúc đó khổ mới chấm dứt.
Cho nên, nhân loại đi tìm kiếm hạnh phúc để chấm dứt khổ. Hạnh phúc thì ở đâu? Hạnh phúc sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có trong thế giới vật chất ngoại cảnh. Cụ thể là hạnh phúc có trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái.
Hạnh phúc có trong những hoàn cảnh tốt đẹp như giàu có, khỏe mạnh, xinh đẹp, đầy đủ tiền bạc, danh tiếng, quyền lực, vân vân. Ai mà làm chủ được những hoàn cảnh đó, ai mà sở hữu được những hoàn cảnh đó thì người đó sẽ có hạnh phúc.
Vì hiểu biết đó, nhân loại mới đi tìm kiếm hạnh phúc, mới đi tìm kiếm sự làm chủ, sở hữu những hoàn cảnh tốt đẹp. Họ cho rằng có được những thứ đó là sẽ chấm dứt được khổ. Như vậy, khổ, nguyên nhân khổ, sự chấm dứt khổ đó thuộc về thế giới ngoại cảnh.
Cho nên, con đường chấm dứt khổ là thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi thế giới ngoại cảnh. Quý vị sẽ quan sát sự thật để hiểu biết về khổ diệt và con đường khổ diệt mà nhân loại đang bị chi phối, đang sống với hiểu biết đó.
Không những nhân loại hiểu biết về khổ diệt và con đường khổ diệt cũng thuộc về thế giới ngoại cảnh, cho nên rất nhiều tông phái Phật giáo, rất nhiều người tu học Phật giáo cũng giải thích lời Phật dạy về khổ diệt và về con đường khổ diệt là thuộc về thế giới ngoại cảnh, cũng tương tự như vậy.
Quý vị thấy rằng vì cho rằng khi nào có hạnh phúc đầy đủ thì lúc đó khổ chấm dứt. Vì thế, họ quan niệm khổ diệt hay thuật ngữ Phật học là Niết Bàn là một cảnh giới tâm linh nào đó. Nơi đó là thường lạc ngã tịnh hay thường lạc vô ngã tịnh.
Nơi đó phải là một nơi chốn phúc lạc toàn vẹn, pháp phỉ sướng mãn. Sự sung sướng tràn đầy, hạnh phúc vĩnh cửu, chân thật thì lúc đó khổ mới chấm dứt. Hiểu biết như vậy xuất phát từ hiểu biết mà nhân loại đã mặc định: chỉ khi nào có hạnh phúc đầy đủ, lúc đó khổ mới chấm dứt.
Vì vậy, họ giải thích Niết Bàn, họ giải thích khổ diệt là Niết Bàn. Niết Bàn phải là một nơi chốn tràn đầy hạnh phúc, phúc lạc toàn vẹn, pháp phỉ sướng mãn. Tông phái thì đề ra Niết Bàn là thường lạc ngã tịnh, có tông phái thì đề ra Niết Bàn là thường lạc vô ngã tịnh.
Quý vị thấy rằng cái ảnh hưởng của nhân loại là chỉ khi nào có hạnh phúc đầy đủ, lúc đó khổ mới chấm dứt. Lúc nào có hạnh phúc tuyệt đối, hạnh phúc Niết Bàn thì lúc đó là khổ chấm dứt, khổ diệt.
Vì vậy, quý vị thấy rằng trong cuộc sống, khi nào có tình yêu thương thì lúc đó người đó cảm thấy rất sung sướng, rất hạnh phúc. Nhưng sự thực, tình yêu thương đó chính là tham ái. Đương nhiên, khi tham ái, khi có thương yêu thì lúc đó có hạnh phúc.
Khi có hạnh phúc thì khổ không có mặt. Nhưng họ không biết rằng yêu thương đó chính là tham ái, nó đưa đến ràng buộc, đưa đến nắm giữ. Đã có thương thì có ghét, vì thương ghét là hai mặt của một thực tại thế gian, thực tại bát tà đạo.
Vì vậy, dựa theo mặc định khi nào có yêu thương thì có hạnh phúc, khi nào có hạnh phúc thì khổ diệt. Cho nên, họ mới giải thích rằng phải đạt được một tình thương tuyệt đối, thương tất cả muôn vật, muôn loài thì lúc đó có hạnh phúc vĩnh cửu, lúc đó là khổ diệt.
Cho nên, họ gắn cho Đức Phật là yêu thương tất cả mọi người, không trừ một ai cả, từ những người tin theo mình hay những người phỉ báng, chống đối mình cũng yêu thương được tất cả. Yêu thương như vậy là có hạnh phúc, đó là hạnh phúc tuyệt đối, hạnh phúc vô điều kiện.
Nhờ hạnh phúc mà khổ diệt. Quý vị thấy rằng lý luận đó, tư duy đó dựa trên hiểu biết là khi nào có hạnh phúc đầy đủ, tuyệt đối thì lúc đó là khổ diệt. Cho nên, họ hiểu biết là khổ diệt và con đường khổ diệt là thay đổi hoàn cảnh sống.
Niết Bàn vẫn là một nơi chốn, vẫn là một cảnh giới, vẫn thuộc về thế giới ngoại cảnh. Tuy rằng Niết Bàn hiểu theo như vậy là một thế giới tâm linh, nhưng nó vẫn thuộc về thế giới ngoại cảnh, vẫn là thay đổi thế giới ta bà này bằng một thế giới tâm linh là Niết Bàn thì lúc đó là khổ diệt.
Đương nhiên, nếu như Niết Bàn như vậy thì nó bị chi phối bởi thời gian, phải phấn đấu, nỗ lực bây giờ để sau này mới đạt được Niết Bàn. Quý vị phải Tuệ tri, phải hiểu biết đúng như thật cái hiểu biết về khổ, nguyên nhân của khổ của nhân loại là như vậy.
Quý vị quan sát chánh tư duy, quan sát hiểu biết đúng sự thật về khổ diệt và con đường khổ diệt. Khi quý vị hiểu rằng nguyên nhân của khổ là tham sân si, có nghĩa rằng tham sân si có mặt thì khổ có mặt, tham sân si không có mặt thì khổ không có mặt.
Như vậy, quý vị hiểu rằng nếu như an trú tâm biết tỉnh giác, tâm biết vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt, tâm biết đó gọi là tâm biết tánh không. Vì nó không có khái niệm, không có ngôn từ, không có phân biệt, cho nên gọi là tâm biết tánh không.
Tâm biết tánh không đó không làm phát sinh tham sân si, cho nên không phát sinh khổ vui với bất kỳ đối tượng nào. Khi an trú tâm biết tỉnh giác nhờ chánh niệm về thân, nhớ đến tích cực chú tâm quán sát thân nơi thân, lúc đó kinh nghiệm được không có thích ghét, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
Kinh nghiệm cái không đó, kinh nghiệm cái không không gì? Không thích ghét, không khổ vui. Cái trạng thái không đó, cái không đó chứ không phải là trạng thái không. Kinh nghiệm hiểu biết không thích ghét, không khổ vui với bất kỳ một cái gì ở trên đời thì đó gọi là kinh nghiệm khổ diệt hay kinh nghiệm Niết Bàn.
Quý vị hiểu rằng khi quán thọ, quán tâm, quán pháp, an trú tâm biết ý thức chánh tri kiến, tâm biết đó hiểu biết đúng sự thật về đối tượng. Thực tại này là cảm thọ do căn trần tiếp xúc mà phát sinh. Nó là tâm chứ không phải là cảnh.
Nó vô thường, nó vô chủ sở, nó có vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly. Lúc đó cũng kinh nghiệm được không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy với bất kỳ đối tượng nào. Hay nói gọn lại là không thích ghét, không khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
Kinh nghiệm được như vậy là kinh nghiệm khổ diệt hay là kinh nghiệm Niết Bàn. Vậy thì khổ diệt là không có thích ghét, không có tham sân si. Nói nôm na, nói cho đơn giản là không có thích ghét, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
Tuệ tri cái không đó, hiểu biết đúng sự thật là không có thích ghét, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào thì đó chính là Tuệ tri khổ diệt hay là Tuệ tri Niết Bàn. Lúc đó cũng Tuệ tri được khi bát chánh đạo khởi lên.
Nếu như có chánh niệm về thân, lúc đó có chánh tinh tấn, chánh định, tỉnh giác và lúc đó kinh nghiệm được khổ diệt. Nếu như chánh niệm về thọ, chánh niệm về tâm, về pháp thì lộ tâm khởi lên là chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định, chánh tư duy, chánh tri kiến, như lý tác ý, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Lúc đó là kinh nghiệm được khổ diệt. Như vậy, bát chánh đạo là con đường khổ diệt, con đường không có thích ghét, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào. Như vậy, quý vị quán sát như vậy là quý vị Tuệ tri khổ diệt và Tuệ tri con đường khổ diệt.
Như vậy là quý vị so sánh hai cái hiểu biết này để là Trạch pháp phân biệt hiểu biết đúng và sai về Khổ Diệt
Có Trạch pháp phân biệt rõ ràng hai loại hiểu biết. Một là loại hiểu biết không đúng sự thật về Khổ Diệt và con đường Khổ Diệt. Hai là hiểu biết đúng sự thật, gọi là Tuệ tri Khổ Diệt và con đường Khổ Diệt.
Bây giờ, quý vị thực hành Chánh tư duy để Tuệ tri Khổ Diệt và con đường Khổ Diệt. Đương nhiên, quý vị nên vào Định an trú vững chắc, rồi Chánh tư duy. Khi đã Chánh tư duy đầy đủ, thỏa mãn với nó, quý vị có thể dừng lại, an trú tỉnh giác, quay trở lại với Chánh niệm về thân.
Quý vị dừng lại tứ thể tọa thiền. Quý vị phải luôn nhớ siết chặt răng lưỡi, điều này không thể quên được. Phải liên tục nhớ siết chặt răng lưỡi, đồng thời nhớ chủ tâm cảm giác răng lưỡi và cảm giác toàn thân.
Quý vị đã thực hành Chánh niệm, nhớ đến tích cực chủ tâm quán sát pháp nơi pháp, với đề mục là Tuệ tri Khổ Diệt và Tuệ tri con đường Khổ Diệt. Điều này đương nhiên là Tuệ tri Khổ Diệt và Tuệ tri con đường Khổ Diệt.
Khi quý vị thực hành Bát Chánh Đạo, quý vị Tuệ tri được hai vấn đề này. Mức độ Tuệ tri của quý vị cũng sâu sắc, toàn diện tương ứng với mức độ thực hành Bát Chánh Đạo.
Bây giờ, quý vị chuyển sang tứ thể thiền hành. Quý vị thực hành Chánh niệm ghi nhận, hay Chánh niệm về hơi thở. Ngay khi quý vị thiền hành như vậy, trí tuệ quý vị cũng có thể Chánh kiến khởi lên, cũng có thể Tuệ tri Khổ Diệt, Tuệ tri con đường Khổ Diệt rất nhanh chóng.
Có thể quý vị đang đi như vậy, quý vị kinh nghiệm Tuệ tri không yêu thích, không chán ghét với bất kỳ đối tượng nào. Đó chính là quý vị Tuệ tri Khổ Diệt. Quý vị thấy rằng, chỉ khi nào mình có Chánh niệm về thân, về thọ, về tâm, về pháp thì lúc đó Bát Chánh Đạo khởi lên, lúc đó mới có Khổ Diệt. Đó là quý vị Tuệ tri con đường Khổ Diệt. Bây giờ quý vị thiền hành.
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=UFynxfoxFuw
Tác giả: Thiền sư Nguyên Tuệ



