Sư Nguyên Tuệ Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Sự Sinh Diệt, Vị Ngọt, Sự Nguy Hiểm và Sự Xuất Ly của Thọ
Bài giảng này hướng dẫn thực hành Tuệ tri sự sinh diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, là một phần trong pháp hành Tứ niệm xứ. Mục đích là giúp hành giả kinh nghiệm được giải thoát và thân chứng Niết bàn thông qua việc hiểu biết đúng sự thật về các cảm thọ.
Thân bài (Phân tích chi tiết):
- Pháp hành Tứ niệm xứ và các chánh niệm:
- Chánh niệm về thân:
- Mục đích: Ghi nhận cảm giác toàn thân.
- Kết quả: Kinh nghiệm tâm biết trực tiếp giác quan, không có tâm biết ý thức; kinh nghiệm tâm biết tỉnh giác (vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt, không tánh).
- Giải thoát: An trú tâm biết tỉnh giác dẫn đến không thích ghét, không khổ vui với đối tượng.
- Chánh niệm về Thọ:
- Mục đích: Quán sát Thọ như Thọ, Thọ nơi Thọ.
- Kết quả: Tuệ tri thực tại là cảm Thọ do căn trần tiếp xúc, là tâm, vô thường, vô chủ sở hữu.
- Giải thoát: Không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy.
- Thân chứng: Khổ diệt (Niết bàn).
- Chánh niệm về tâm:
- Mục đích: Quán sát tâm nơi tâm để hiểu biết đúng sự thật về tâm.
- Phân loại tâm: Thọ, tưởng, hành, thức.
- Tính chất của tâm: Sinh diệt liên tục, tại một thời điểm chỉ có một thứ tâm duy nhất (trừ Thọ và tưởng đồng sanh đồng diệt, ý thức và tứ tưởng đồng sanh đồng diệt); vô thường, vô chủ, vô sở.
- Giải thoát: Không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy.
- Thân chứng: Khổ diệt (Niết bàn).
- Chánh niệm về Pháp:
- Mục đích: Quán sát Pháp nơi Pháp để hiểu biết đúng như thật về Pháp.
- Phạm vi của Pháp:
- Nghĩa rộng: Tất cả các sự vật hiện tượng.
- Nghĩa hẹp: Những tri thức Đức Phật đã khám phá và truyền dạy (Pháp Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng).
- Đề mục quan trọng: Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ.
- Chánh niệm về thân:
- Sự giác ngộ của Đức Phật và Tuệ tri về Thọ:
- Lời tuyên bố của Đức Phật: “Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ.”
- Bốn khía cạnh giác ngộ về Thọ:
- Tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ (sự sinh diệt của Thọ).
- Tuệ tri vị ngọt của Thọ.
- Tuệ tri sự nguy hiểm của Thọ.
- Tuệ tri sự xuất ly của Thọ.
- Tuệ tri về Thọ trong quán Pháp:
- Thực tại là cảm Thọ, là tâm, vô thường, vô chủ vô sở.
- Tuệ tri vị ngọt của Thọ:
- Định nghĩa vị ngọt: Những niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời này.
- Cảm Thọ và vị ngọt:
- Sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh sáu loại cảm Thọ.
- Phân loại cảm Thọ: Lạc Thọ (dễ chịu), Khổ Thọ (khó chịu), Bất khổ bất lạc Thọ (trung tính).
- Nhân loại đều cảm nhận được vị ngọt (niềm vui hạnh phúc).
- Khẳng định của Đức Phật: “Ta đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt” (vị ngọt là có thật).
- Sự khác biệt giữa Đức Phật và phàm phu:
- Phàm phu: Cảm nhận vị ngọt nhưng hiểu biết sai sự thật (cho rằng thuộc về thế giới vật chất, có thể nắm giữ).
- Đức Phật: Tuệ tri vị ngọt là các cảm giác dễ chịu (lạc Thọ), là tâm, không phải vật chất.
- Tuệ tri sự nguy hiểm của Thọ:
- Bản chất của vị ngọt: Là cảm Thọ, là tâm, vô thường, vô chủ, vô sở hữu.
- Nguy hiểm không phải do lạc Thọ vô thường: Không phải lạc Thọ là nguy hiểm vì nó vô thường.
- Nguy hiểm do tham ái lạc Thọ:
- Tham ái vị ngọt dẫn đến ràng buộc, muốn nắm giữ, làm chủ, sở hữu.
- Khi lạc Thọ vô thường, biến hoại, biến diệt, sầu bi khổ ưu não khởi lên.
- Tham ái lạc Thọ là nguyên nhân của khổ.
- Đối với người giác ngộ: Vẫn thấy lạc Thọ nhưng không tham ái, nên không ràng buộc, không khổ khi lạc Thọ biến diệt.
- Tuệ tri sự xuất ly của Thọ:
- Ý nghĩa: Hiểu biết đúng như thật tham ái đối với lạc Thọ là nguyên nhân đưa đến khổ.
- Mở rộng: Tuệ tri sân đối với khổ Thọ và si đối với bất khổ bất lạc Thọ cũng là nguyên nhân của khổ (sân và si là biến thể của tham).
- Kết quả: Không còn tham đối với lạc Thọ, không còn sân đối với khổ Thọ, không còn si đối với bất khổ bất lạc Thọ.
- Đồng nghĩa: Tuệ tri khổ diệt (Niết bàn).
- Tuệ tri theo hai chiều thuận và nghịch:
- Tuệ tri thuận: Hiểu biết đúng như thật về vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly (minh trí tuệ chánh kiến).
- Tuệ tri nghịch: Tuệ tri vô minh, tà kiến, sự không tuệ tri của phàm phu.
- Phàm phu không tuệ tri thực tại là cảm Thọ, là tâm, vô thường, vô chủ sở hữu.
- Phàm phu cho rằng vị ngọt thuộc về thế giới vật chất, có thể nắm giữ, làm chủ.
- Dẫn đến tham ái, nắm giữ, ràng buộc, và khi mất đi thì sầu bi khổ não.
- Tham ái vị ngọt là nguyên nhân của 90-95% nỗi khổ của nhân loại.
- Phàm phu không tuệ tri tham sân si là nguyên nhân của khổ, nên không tuệ tri khổ diệt.
- Thực hành Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly:
- Bước 1: Vào định:
- An trú sơ thiền, nhị thiền, tam thiền.
- Phương pháp: Siết chặt răng lưỡi, chú tâm cảm giác nơi răng lưỡi, nhớ đến điểm dừng khi thở ra, lắc qua lắc lại.
- Bước 2: Chánh tư duy:
- Thuộc lòng dàn bài về vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly.
- Đối chiếu với cuộc sống của bản thân và những người không tu tập Bát Chánh Đạo.
- Bước 3: Thiền hành (Quán Thọ):
- Siết chặt răng lưỡi, đi tự nhiên.
- Khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng, biết đó là Thọ (là tâm, không phải vật chất).
- Các thông tin về Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly được kích hoạt trong bộ nhớ.
- Tâm biết ý thức Chánh kiến khởi lên nội dung đó.
- Kết quả: Kinh nghiệm không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy (Tuệ tri sự xuất ly, Tuệ tri khổ diệt, Tuệ tri Niết bàn).
- Bước 1: Vào định:
- Sự khởi lên nhanh chóng của Tuệ tri:
- Ví dụ hòn than lửa: Khi thấy hòn than, ý thức về sự nguy hiểm khởi lên rất nhanh chóng, vi tế, dẫn đến tác ý tránh né mà không cần suy nghĩ rõ ràng.
- Tương tự trong thiền hành: Khi biết đối tượng là Thọ, các thông tin về Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly được kích hoạt nhanh chóng, dẫn đến kinh nghiệm xuất ly.
Kết luận:
Bài giảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuệ tri đúng đắn về cảm thọ, bao gồm sự sinh diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Thực hành Tứ niệm xứ, đặc biệt là chánh niệm về Pháp, giúp hành giả đạt được sự giải thoát khỏi tham ái, sân hận và si mê, từ đó thân chứng Niết bàn.
Hướng dẫn Thực hành Tuệ Tri Sự Sinh Diệt, Vị Ngọt, Sự Nguy Hiểm và Sự Xuất Ly của Thọ
Thiền sư Nguyên Tuệ hướng dẫn thực hành Tuệ tri sự sinh diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ.
Quý vị đang thực hành pháp hành Tứ niệm xứ, hay tiếng Việt là rèn luyện bốn loại trí nhớ chánh. Bao gồm chánh niệm về thân, chánh niệm về Thọ, chánh niệm về tâm và chánh niệm về Pháp.
Quý vị đã thực hành chánh niệm thứ nhất là nhớ đến tích cực chủ tâm ghi nhận cảm giác toàn thân. Khi thực hành chánh niệm này, quý vị kinh nghiệm được hay tuệ tri được tâm biết trực tiếp giác quan ghi nhận đối tượng, không có tâm biết ý thức khởi lên.
Quý vị kinh nghiệm được tâm biết tỉnh giác. Tâm biết tỉnh giác đó là vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt. Tâm biết tỉnh giác đó còn có tên gọi là tâm biết không tánh.
Quý vị thực hành chánh niệm về thân để kinh nghiệm tâm biết tỉnh giác, tâm biết không tánh đó. Khi an trú tâm biết tỉnh giác hay tâm biết không tánh đó, quý vị kinh nghiệm được, tuệ tri được giải thoát.
Quý vị kinh nghiệm được không có thích ghét bất kỳ đối tượng nào, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào.
Tiếp đến, quý vị thực hành chánh niệm thứ hai là chánh niệm về Thọ. Tức là nhớ đến tích cực chú tâm quán sát Thọ nơi Thọ.
Khi thực hành chánh niệm về Thọ, quý vị kinh nghiệm được, thân chứng được hay tuệ tri được hiểu biết đúng sự thật các đối tượng thực tại là cảm Thọ do căn trần tiếp xúc mà phát sinh. Nó là tâm chứ không phải là thế giới vật chất, nó vô thường, nó vô chủ sở hữu.
Khi tuệ tri được thực tại là cảm Thọ, nó là tâm chứ không phải vật chất, nó vô thường, nó vô chủ vô sở hữu, quý vị cũng kinh nghiệm, cũng thân chứng được giải thoát. Quý vị kinh nghiệm được không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy với bất kỳ đối tượng nào.
Kinh nghiệm đó hay thân chứng đó là thân chứng về khổ diệt mà thuật ngữ Phật học gọi là Niết bàn.
Rồi quý vị thực hành chánh niệm thứ ba là nhớ đến tích cực chú tâm quán sát tâm nơi tâm. Để quý vị hiểu biết đúng sự thật về tâm.
Tâm có rất nhiều thứ tâm khác nhau, nhưng chia làm bốn loại là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Các thứ tâm đó sinh diệt liên tục, tại một thời điểm chỉ có một thứ tâm duy nhất.
Chỉ trừ trường hợp Thọ và Tưởng là hai tâm đồng sanh đồng diệt, và Ý thức cùng với Tư tưởng là hai tâm đồng sanh đồng diệt. Còn tất cả các thứ tâm khác đều sinh lên để diệt đi, tại một thời điểm chỉ có một thứ tâm duy nhất.
Các tâm đó đều vô thường, đều vô chủ, vô sở hữu. Quý vị kinh nghiệm được với hiểu biết đúng như thật đó thì không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy với bất kỳ đối tượng nào.
Thân chứng như vậy là thân chứng Khổ diệt mà thuật ngữ Phật học gọi là thân chứng Niết bàn.
Bây giờ quý vị chuyển qua thực hành chánh niệm thứ tư là chánh niệm về Pháp. Là nhớ đến tích cực chủ tâm quán sát Pháp nơi Pháp để quý vị hiểu biết đúng như thật về Pháp.
Pháp thì quý vị hiểu tất cả các sự vật hiện tượng đều là pháp. Với nghĩa rộng là quý vị quan sát Pháp nơi Pháp để hiểu biết đúng sự thật về tất cả các sự vật và hiện tượng, gọi là tất cả Pháp.
Nhưng chữ Pháp trong câu quán Pháp, quán sát Pháp nơi Pháp này có nghĩa hẹp hơn. Đây là quan sát những tri thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy, hay thuật ngữ Phật học gọi là Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng.
Khi quý vị thực hành chánh niệm nhớ đến tích cực chú tâm quán sát Pháp nơi Pháp, sẽ có rất nhiều đề mục. Đầu tiên là quý vị quan sát Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng, đó là tuệ tri Vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly.
Quý vị đã học, đã hiểu biết về sự giác ngộ của Đức Phật trong lời tuyên bố rất ngắn gọn. Câu tuyên bố về sự giác ngộ của Đức Phật đó là: “Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ.”
Sự giác ngộ của Đức Phật là giác ngộ với cảm Thọ, giác ngộ thực tại này là cảm Thọ chứ không phải là giác ngộ về thế giới, về vũ trụ. Đức Phật giác ngộ với cảm Thọ, giác ngộ bởi bốn khía cạnh.
Khía cạnh thứ nhất là tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, mà chúng ta nói theo tiếng Việt là tuệ tri sự sinh diệt của Thọ. Khía cạnh thứ hai là tuệ tri vị ngọt. Khía cạnh thứ ba là tuệ tri sự nguy hiểm. Khía cạnh thứ tư là tuệ tri sự xuất ly của Thọ.
Trong phần quán Thọ, quý vị đã quan sát thực tại này là cảm Thọ do căn trần tiếp xúc mà phát sinh, nó vô thường, nó vô chủ vô sở hữu. Thế thì trong phần quán Pháp này, quý vị sẽ quan sát để tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ.
Quý vị tuệ tri như thế nào? Trước tiên là quý vị đã hiểu biết rằng Thực tại này là cảm Thọ, nó là tâm chứ không phải thế giới vật chất. Nó vô thường có nghĩa là nó sinh lên rồi nó diệt liền. Nó vô chủ vô sở có nghĩa là không thể làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều khiển, không thể nắm giữ cũng không thể xua đuổi được nó. Đó là tính chất vô chủ vô sở hữu.
Thế thì bây giờ quý vị tuệ tri vị ngọt là như thế nào? Quý vị quan sát hiểu rằng trong cuộc sống của thế gian này có hạnh phúc và có khổ đau. Những niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời này thì đó là vị ngọt của cuộc đời.
Đương nhiên quý vị hiểu rằng tất cả mọi người trong thế gian này, hễ ai các căn còn lành lặn, khi các căn đó tiếp xúc với sáu trần thì đều phát sinh các cảm Thọ. Các cảm Thọ đó có thể là sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì phát sinh sáu loại cảm Thọ như quý vị đã hiểu biết.
Trong mỗi một loại cảm Thọ đó, theo tính chất có thể phân làm ba loại. Những cảm Thọ dễ chịu thì gọi là lạc Thọ. Những cảm Thọ khó chịu thì gọi là khổ Thọ. Những cảm Thọ mà trung tính, không dễ chịu không khó chịu thì thuật ngữ Phật học gọi là bất khổ bất lạc Thọ.
Thế thì nhân loại này, hễ căn còn lành lặn, sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì đều cảm nhận được vị ngọt, cảm nhận được những niềm vui hạnh phúc. Không ai là không cảm nhận được.
Nhưng ai cũng khẳng định rằng niềm vui hạnh phúc, vị ngọt là có thật. Trong giáo pháp này, Đức Phật cũng nói rằng: “Ta đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt”, nghĩa là Ngài khẳng định rằng vị ngọt là có thật.
Cuộc đời này tuy có khổ đau nhưng vẫn có hạnh phúc. Tuy rằng hiểu biết đúng sự thật niềm vui hạnh phúc gọi là vui, cái vui đó, cái vị ngọt đó gọi là vui, nhưng vui thì ít, khổ thì nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn.
Đức Phật đã dùng rất nhiều phương cách để thuyết minh về sự thực của cuộc sống thế gian: vui thì ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Nhưng Ngài vẫn khẳng định rằng tuy thực tại thế gian là vui ít, khổ nhiều, nhưng cái vui đó vẫn có chứ không phải là không có.
Cho nên Ngài nói là: “Ta đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt”. Vị ngọt là có thật. Điều này, sự thật này được Ngài nói ra, nhưng nhiều luận sư Phật giáo sau này, nhiều tông phái Phật giáo sau này thì đi ngược lại lời tuyên bố của Ngài.
Họ cho rằng cuộc đời này chỉ là khổ thôi, tất cả đều là khổ. Năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là khổ. Cuộc đời chỉ là khổ và những niềm vui hạnh phúc là giả có, là không có thật.
Thế thì quý vị sẽ thấy rằng những luận điểm như vậy đưa đến một hiểu nhầm Phật giáo cho rằng cuộc đời này là bể khổ, chỉ là khổ thôi. Sự thực là cuộc đời này tuy rằng có khổ nhưng vẫn có hạnh phúc, có vị ngọt.
Cho nên Đức Phật nói rằng: “Ta đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt”. Hiểu biết này cũng đồng với hiểu biết của phàm phu. Nhưng phàm phu tuy rằng cảm nhận được về vị ngọt nhưng hiểu biết sai sự thật về vị ngọt, cho nên không tuệ tri vị ngọt.
Còn Đức Phật Ngài khẳng định rằng cuộc đời này có vị ngọt, có niềm vui hạnh phúc, nhưng Ngài tuệ tri vị ngọt. Vị ngọt thực chất là các cảm giác dễ chịu, gọi là lạc Thọ, nó là tâm chứ không phải thuộc về thế giới vật chất. Cho nên quý vị hiểu rằng tuệ tri vị ngọt là hiểu biết đúng sự thật cuộc đời này có hạnh phúc, có niềm vui, đó là vị ngọt, nhưng niềm vui hạnh phúc và kể cả khổ đau đều là tâm, Các cảm giác mà thuật ngữ Phật học gọi là cảm thọ, đó là tâm chứ không phải là thế giới vật chất. Nó vô thường, sinh lên rồi diệt đi, vô chủ, vô sở hữu, không thể nào làm chủ, sở hữu hay nắm giữ được. Đó gọi là tuệ tri vị ngọt.
Thứ hai là tuệ tri sự nguy hiểm. Khi đã tuệ tri vị ngọt, Đức Phật cũng tuệ tri sự nguy hiểm. Vị ngọt, niềm vui, hạnh phúc này là cảm thọ, là tâm, nó vô thường, vô chủ, vô sở hữu.
Nếu tham ái vị ngọt, sẽ bị ràng buộc với nó, muốn nắm giữ, làm chủ, sở hữu nó. Khi đã ràng buộc, nắm giữ, muốn làm chủ, sở hữu nó nhưng nó lại vô thường, vô chủ, vô sở hữu, thì khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi, sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.
Vì vậy, tham ái niềm vui, hạnh phúc, tham ái vị ngọt là nguy hiểm, vì nó sẽ đưa đến khổ. Quý vị sẽ thấy rằng tuệ tri sự nguy hiểm chính là tuệ tri nguyên nhân của khổ. Tham ái vị ngọt, tham ái niềm vui, hạnh phúc thực chất là tham ái các lạc thọ, và đó là sự nguy hiểm vì nó đưa đến sầu bi khổ não.
Quý vị phải hiểu thật kỹ chỗ này. Sau này, các luận sư Phật giáo, các tông phái Phật giáo, và thậm chí cả trong một số kinh điển, đều nói rằng vì các lạc thọ đó là vô thường, nên các lạc thọ đó là nguy hiểm. Quý vị mới thấy rằng tuệ tri nguy hiểm như vậy là hoàn toàn không đúng.
Không phải các lạc thọ là nguy hiểm vì các lạc thọ đó là vô thường, mà là tham ái các lạc thọ đó là nguy hiểm. Vì tham ái đưa đến nắm giữ, đưa đến ràng buộc. Vì vậy, khi các lạc thọ đó vô thường, sầu bi khổ ưu não mới khởi lên. Cho nên, tham ái lạc thọ mới nguy hiểm, chứ không phải lạc thọ mới nguy hiểm.
Đối với các vị giác ngộ, các vị vẫn thấy, nghe, cảm nhận các lạc thọ đó. Các lạc thọ đó vô thường, nhưng vì không tham ái các lạc thọ đó, nên không ràng buộc với các lạc thọ đó. Khi lạc thọ đó vô thường, biến hoại, biến diệt, sầu bi khổ ưu não không khởi lên nơi các vị đó.
Vì vậy, quý vị phải hiểu rằng tham ái lạc thọ là nguy hiểm vì nó là nguyên nhân làm phát sinh khổ. Khi đã tùy tri sự nguy hiểm như vậy, Đức Phật cũng tùy tri được sự xuất ly. Có nghĩa là khi đã hiểu biết đúng như thật, tham ái đối với lạc thọ là nguyên nhân đưa đến khổ.
Đồng nghĩa là tuệ tri được sân đối với khổ thọ là nguyên nhân đưa đến khổ, si đối với bất khổ bất lạc thọ là nguyên nhân đưa đến khổ. Vì sân và si chính là các biến thể của tham. Vì vậy, khi đã tuệ tri tham ái là nguy hiểm, là nguyên nhân phát sinh khổ, lúc đó quý vị thấy rằng Đức Phật cũng tuệ tri được, thân chứng được, không còn tham đối với lạc thọ, không còn sân đối với khổ thọ, không còn si đối với bất khổ bất lạc thọ.
Đó chính là tuệ tri sự xuất ly của thọ, Tuệ tri sự xuất ly của thọ cũng đồng nghĩa là tuệ tri khổ diệt, mà thuật ngữ Phật học gọi là tuệ tri Niết Bàn. Thế thì như vậy, sự giác ngộ của Đức Phật là tuệ tri sự sinh diệt của thọ, tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm, tuệ tri sự xuất ly của thọ.
Quý vị đang thực hành tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm, tuệ tri sự xuất ly, thực chất là một cách nói khác, cách trình bày khác của Tứ Thánh Đế. Không những quý vị tuệ tri, hiểu biết đúng như thật về vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly, đó là quý vị khảo sát minh, trí tuệ, chánh kiến về các đối tượng đó, mà quý vị còn phải tuệ tri vô minh, tuệ tri tà kiến, tuệ tri sự không tuệ tri về vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của phàm phu.
Quý vị phải hiểu được cái tâm biết ý thức tà tri kiến trên lộ trình tâm bát tà đạo là không tuệ tri vị ngọt, không tuệ tri sự nguy hiểm, không tuệ tri sự xuất ly là như thế nào. Vì không tuệ tri thực tại này là cảm thọ, không tuệ tri thực tại này là do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh, nó vô thường, nó vô chủ sở hữu.
Cho nên, kẻ phàm phu cũng cảm nhận được vị ngọt, cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, nhưng cho rằng nó thuộc về thế giới ngoại cảnh, nó thuộc về thế giới vật chất. Mà đã là thế giới vật chất thì có thể nắm giữ được, có thể làm chủ được, có thể sở hữu được các đối tượng đó. Cho nên mới tham ái các đối tượng đó, thích thú nắm giữ, ràng buộc với các đối tượng đó.
Và vì tham ái, nắm giữ, ràng buộc với các đối tượng đó, cho nên khi nó mất đi, sầu bi khổ não sẽ khởi lên. Quý vị phải quan sát được sự thật là tham ái niềm vui, hạnh phúc, tham ái lạc thọ nó đưa đến những nỗi đau khổ, thống khổ của nhân loại này như thế nào. Quý vị đã nghe giảng trong bài “Mục đích cuộc sống”, rồi quý vị đã nghe giảng trong bài “Khổ đế và Tập đế”.
Quý vị mới biết rằng vì tham ái vị ngọt, tham ái niềm vui, hạnh phúc vật chất và tinh thần, tham ái sự sống, sự hiện hữu, rồi tham ái cõi thế giới tâm linh là cực lạc, cho nên con người mới lao tâm khổ tứ, mới phấn đấu nỗ lực suốt ngày đêm, mới tranh giành, giành giật, mới cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, vợ chồng tranh đoạt với nhau, hàng xóm láng giềng tranh đoạt với nhau, quốc gia này tranh đoạt với quốc gia kia, vv.
Tất cả những nỗi khổ của nhân loại này, nỗi khổ do hoàn cảnh sống nó chỉ chiếm tối đa từ 5 đến 10% nỗi khổ của nhân loại. Còn 90 đến 95% nỗi khổ của nhân loại này là do tham ái vị ngọt, tham ái niềm vui, hạnh phúc vật chất, tinh thần, tham ái sự hiện hữu, tham ái thế giới cực lạc tâm linh mới làm phát sinh ra các nỗi khổ đó.
Cho nên, quý vị tuệ tri, hiểu biết đúng như thật phàm phu không tùy tri vị ngọt, không tuệ tri sự nguy hiểm, không tuệ tri sự xuất ly. Vì không tuệ tri tham sân si là nguyên nhân của khổ, cho nên không tuệ tri được là không còn tham, không còn sân, không còn si, không tuệ tri khổ diệt.
Cho nên, quý vị thực hành tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm, tuệ tri sự xuất ly, quý vị phải tuệ tri theo hai chiều thuận và nghịch như vậy. Đương nhiên đây mới chỉ là dàn bài. Quý vị chánh tư duy như vậy, rồi quý vị phải so sánh nó với cuộc sống của mình trước đây và của cuộc sống của những người không tu tập Bát Chánh Đạo hiện nay để quý vị thấy được sự thật này.
Để thực hành quán pháp nơi pháp về tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly này, quý vị đầu tiên là quý vị vào định. Quý vị an trú sơ thiền, nhị thiền, tam thiền gì đó cũng được. Bằng cách là quý vị nhớ đến siết chặt răng lưỡi, chú tâm cảm giác nơi răng lưỡi để tự nhiên cứ đến cảm giác thở ra, quý vị nhớ đến điểm dừng hay là dừng lại, rồi tiếp đến là lắc qua lắc lại.
Quý vị vào định. Sau khi vào định ổn định, quý vị mới chánh tư duy về những điều mà quý vị nghe đây. Làm thế nào là quý vị chánh tư duy mà quý vị có thể thuộc lòng dàn bài này, rồi từ đó quý vị đối chiếu nó với cuộc sống của mình trước đây và cuộc sống của những người không tu tập Bát Chánh Đạo hiện nay để quý vị đạt được kết quả.
Bây giờ là quý vị thực hành, quý vị chánh tư duy về điều đó.
……………… thời gian thực hành …………….
Quý vị dừng lại tư thế tọa thiền nhưng vẫn luôn luôn nhớ đến siết chặt răng lưỡi, chú tâm cảm giác nơi răng lưỡi. Bây giờ quý vị sẽ chuyển qua tư thế thiền hành, nhưng thiền hành lúc này là quán thọ.
Quý vị nhớ đến siết chặt răng lưỡi, tự đi tự nhiên như nhiên, thấy nghe cảm nhận đối tượng nào thì biết đó là thọ, nó là tâm chứ không phải là thế giới vật chất. Quý vị để tự nhiên như nhiên, bắt gặp cái gì thì tâm biết, ý thức, chánh kiến biết đó là thọ.
Nhưng khi quý vị biết đó là thọ, thì những điều mà quý vị chánh tư duy vừa rồi ở trong bộ nhớ nó được lưu vào bộ nhớ, nó được kích hoạt lên. Đó là tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly. Và khi quý vị biết đó là thọ, thì đồng thời những hiểu biết đó cũng tự động khởi lên, nó rất là nhanh chóng, và đưa đến là quý vị kinh nghiệm được tuệ tri sự xuất ly.
Xuất ly ở đây là không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy với bất kỳ đối tượng nào. Có thể quý vị không cảm nhận được, không thấy được những nội dung của tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly.
Quý vị hình dung thế này: khi quý vị đang đi trên đường, bỗng trước mặt xuất hiện một hòn than lửa đang cháy. Lúc đó, nhãn thức ghi nhận đối tượng. Quý vị tự động bước sang phải để tránh hòn than lửa đỏ, không dẫm vào nó.
Quý vị có vẻ như không biết tâm ý thức khởi lên. Nhưng thực sự, khi thấy đối tượng đó, tâm ý thức khởi lên rất nhanh chóng, rất vi tế. Nó biết sự nguy hiểm nếu giẫm phải hòn than này thì bỏng chân, khổ vô cùng.
Chính hiểu biết đó làm phát sinh tác ý bước sang phải để tránh đối tượng. Tuy quý vị không hề khởi lên sự nguy hiểm, nhưng thực ra cái biết ý thức đã khởi lên tư tưởng về sự nguy hiểm rất nhanh chóng. Nó lướt qua, đưa đến tác ý bước sang bên phải để tránh hòn than lửa đỏ đó.
Cũng ý như vậy, nếu quý vị thiền hành, quý vị biết khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng, quý vị biết đó là Thọ. Những thông tin nổi bật trong bộ nhớ cũng được kích hoạt lên. Những thông tin về Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly cũng được kích hoạt lên.
Lúc đó, tâm biết ý thức Chánh kiến có nội dung đó. Do có nội dung đó, quý vị kinh nghiệm được không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát, không hệ lụy đối với bất kỳ đối tượng nào. Kinh nghiệm đó chính là Tuệ trí sự xuất ly, chính là Tuệ tri khổ diệt mà thuật ngữ Phật học gọi là Tuệ tri Niết bàn.
Bây giờ, quý vị chuyển sang thiền hành với chánh niệm Quán Thọ như vậy.
Nguồn: [https://www.youtube.com/watch?v=AN02yy_2Q]
Tác giả: Thiền sư Nguyên Tuệ



