Câu Hỏi Từ Thiền Sinh Trần Mạnh
Câu hỏi thứ nhất của Thiền sinh Trần Mạnh: “Xin sư cho con hỏi, trong bài giảng lý Duyên khởi, con nghe thầy có giảng các pháp là độc lập. Con muốn hỏi đây là suy luận hay do Phật nói và Phật nói trích trong kinh nào? Con xin cảm ơn sư.”
Khảo Sát Quy Luật Hai Nhân Tương Tác (Duyên Khởi)
Thưa quý vị, khi học bài pháp Duyên khởi, chúng ta đã khảo sát quy luật hai nhân tiếp xúc với nhau, hay còn gọi là hai nhân tương tác với nhau (thuật ngữ Phật học gọi là “duyên nhau”). Hai nhân tương tác với nhau rồi cùng diệt, nó mới phát sinh một hay nhiều quả.
Hai Tự Tánh của Các Pháp: Vô Thường và Vô Chủ, Vô Sở hữu
Từ nguyên tắc này, khi quan sát sự thật, chúng ta thấy rằng các sự vật, hiện tượng, hay các pháp đều phát sinh do duyên khởi. Vì phát sinh do duyên khởi, nên nó có hai tính chất, hay còn gọi là hai tự tánh, tức là hai tính chất tự có của các pháp: tính chất vô thường và tính chất vô chủ vô sở hữu (Vô ngã).
Tính Độc Lập và Vô Chủ Vô Sở hữu Xét Theo Thời Gian (Nhân Diệt Quả Sanh)
Trong bài giảng đó, quý vị đã quan sát trên sự thật và thấy rằng theo quy luật duyên khởi như vậy, hai nhân tương tác với nhau rồi cùng diệt mới phát sinh quả, thì nó phải đảm bảo quy luật “nhân diệt quả sanh”. Nghĩa là nhân và quả không đồng thời tồn tại, mà nhân diệt rồi thì quả mới sanh. Hoặc, nếu đang có nhân tồn tại, đang hiện hữu, thì lúc đó quả chưa sanh. Và nếu quả sanh rồi thì nhân đó đã diệt đi.
Vậy thì quý vị thấy rằng, xét theo mặt thời gian, nhân và quả không có quan hệ gì với nhau cả. Nó chỉ xảy ra theo tiến trình nhân diệt quả sanh. Khi quả đang hiện hữu thì nhân diệt rồi. Giữa nhân và quả không có quan hệ lệ thuộc nhau, không có cái nào là chủ nhân chủ sở của cái nào cả. Quan hệ phụ thuộc là quan hệ “cái này là chủ nhân chủ sở của cái kia”. Còn các pháp thì không có quan hệ Chủ Nhân Chủ Sở, tức là không lệ thuộc vào nhau, nó độc lập với nhau.
Xét theo mặt thời gian, quan hệ giữa các pháp là quan hệ theo quy luật nhân quả: nhân diệt quả sanh. Và như vậy, nhân và quả độc lập với nhau, hoàn toàn không có cái nào là chủ nhân chủ sở của cái nào. Cho nên các pháp đó gọi là vô chủ vô sở. Chữ “vô chủ vô sở” có nghĩa là nó độc lập.
Ví Dụ về Ngôi Nhà và Người Đàn Ông (Minh Họa Vô Chủ Vô Sở)
Trong bài Duyên khởi, tôi đã lấy ví dụ về quan hệ vô chủ vô sở hữu giữa ngôi nhà và người đàn ông. Ngôi nhà và người đàn ông cùng tồn tại. Người đàn ông là chủ nhân chủ sở của ngôi nhà (được chính quyền cấp giấy quyền làm chủ, quyền sở hữu căn nhà đó). Nhưng đến khi người đàn ông chết, lúc đó căn nhà vẫn tồn tại, nhưng người chủ đã chết rồi. Lúc đó không có ai là chủ nhân chủ sở của ngôi nhà. Vậy thì ngôi nhà là vô chủ vô sở. Chúng ta hiểu nghĩa của từ “Chủ Nhân Chủ Sở hữu” là như vậy.
Tính Độc Lập và Vô Chủ Vô Sở hữu Xét Theo Không Gian (Tương Tác Từng Đôi Một)
Theo quy luật duyên khởi, nếu xét theo mặt thời gian thì các pháp tồn tại theo quy luật nhân diệt quả sanh. Cho nên quả là độc lập, hay là vô chủ vô sở hữu. Rồi thì nếu xét theo mặt không gian, cùng một lúc, cùng một khoảnh khắc thời gian đó, có rất nhiều sự vật hiện tượng hay nhiều pháp đồng thời tồn tại.
Bây giờ chúng ta xét quan hệ giữa các pháp đó. Quan hệ giữa các pháp đó thì chúng ta thấy rằng các pháp đó tuy có rất nhiều, nhưng nó chỉ tương tác với nhau từng đôi một thôi. Ví dụ như tôi đã nêu rõ trong bài giảng trước, quý vị quan sát tất cả sự vật hiện tượng thì thấy rõ các pháp đó chỉ duyên nhau từng đôi một, còn nó không duyên với các pháp khác.
Đối với một pháp đó, đối với tất cả các pháp khác, nó chỉ tương tác với một pháp thôi, còn các pháp khác nó không tương tác, nó không có quan hệ gì, cho nên nó độc lập với tất cả các pháp khác. Còn pháp mà nó tương tác với nó thì hai nhân đó bình đẳng, không nhân nào chính, nhân nào phụ. Quan hệ giữa hai nhân đó là không có nhân nào là chủ nhân chủ sở của nhân nào cả, mà nó xảy ra là hai nhân tương tác với nhau rồi cùng diệt nó mới phát sinh quả.
Như vậy, xét về mặt không gian, pháp đó đồng thời tồn tại với rất nhiều pháp, nhưng nó chỉ có quan hệ với một pháp, tức là nó tương tác với một pháp thôi. Nhưng quan hệ đó cũng là quan hệ hai nhân bình đẳng tương tác với nhau rồi cùng diệt, chứ hoàn toàn không có quan hệ Chủ Nhân Chủ Sở hữu. Vì vậy, xét theo mặt thời gian thì các pháp hoàn toàn, xét theo mặt không gian thì các pháp hoàn toàn vô chủ vô sở hữu.
Kết Luận: Các Pháp Độc Lập, Vô Chủ Vô Sở
Vô chủ vô sở, quý vị phải quan sát kỹ cái này, lấy một cái mẫu rồi quan sát rằng tất cả các sự vật nó độc lập, nó không có quan hệ Chủ Nhân Chủ Sở hữu với bất kỳ pháp nào theo chiều thời gian cũng như chiều không gian. Như vậy, các pháp là độc lập, các pháp là vô chủ vô sở, không có cái gì là Chủ Nhân Chủ Sở của nó cả, không có cái gì là điều khiển nó cả. Nó không phụ thuộc, không ràng buộc với bất kỳ cái gì. Bản chất của các pháp là như vậy. Điều này đồng nghĩa là không có một cái “ta”, một cái bản ngã nào là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp. Cho nên đó gọi là vô ngã. “Vô” là không có cái “ta” đó, không có chủ nhân chủ sở hữu.
Khái Niệm Vô Ngã Khó Hiểu và Sự Thật Về Tính Độc Lập Của Pháp
Khái niệm vô ngã rất khó hiểu, nhưng quý vị phải khảo sát rằng các pháp do duyên khởi, cho nên các pháp độc lập, không lệ thuộc vào nhau, không ràng buộc vào nhau, không có cái nào là chủ nhân chủ sở của cái nào. Cho nên các pháp là vô chủ vô sở hữu, hay là vô ngã. Kinh điển nói đến vô ngã, nhưng nói một cách rất gọn thế thôi, chứ không có giải thích rõ ràng. Chắc chắn Đức Phật giải thích rất kỹ càng, nhưng người đời sau không truyền bá lại được lời giải thích đó.
Giải Thích Mơ Hồ Về Vô Ngã Trong Kinh Điển Sau Này
Sau này trong kinh điển giải thích một cách rất mơ hồ, không thuyết phục. Ví dụ, kinh điển lặp đi lặp lại rằng do các pháp là vô thường. Trong một đoạn kinh nói:
“Này các Tỳ kheo, cái gì là vô thường thì cái đó là khổ hay là lạc?”.
Trước đó thì nói rằng sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường.
Rồi lúc đó mới đề cập “cái gì vô thường thì cái đó là khổ hay lạc?”.
Bạch Thế Tôn: “Cái gì vô thường thì cái đó là khổ”.
“Vậy cái gì vô thường cái đó là khổ”, có hợp lý chăng nếu cho rằng cái đó là “ta”, là “của ta”, là “tự ngã của ta”?
Bạch Thế Tôn: “Không”.
Và như vậy, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, là khổ, cho nên nó không phải là “ta”, là “của ta”, là “tự ngã của ta”.
Lý luận đó không rõ ràng, không minh bạch và cũng không thuyết phục, không làm cho người ta hiểu vô ngã là gì. Sau này người ta tóm gọn lại là “cái gì vô thường, cái đó khổ thì cái đó là vô ngã”, khẳng định các sự vật hiện tượng vì nó vô thường, vì nó khổ cho nên nó là vô ngã, mà không quán sát sự thật và duyên khởi theo quy luật hai nhân tương tác với nhau rồi cùng diệt nó phát sinh ra quả. Thì quả đó nó phải vô thường, quả đó vô chủ vô sở hay là vô ngã, không có cái ta nào là chủ nhân chủ sở cả.
Trái Ngược Giữa Sự Thật Vô Chủ Vô Sở hữu và Nhiều Chú Giải Phật Giáo
Điều sự thật này trái ngược với rất nhiều chú giải, rất nhiều quan điểm, rất nhiều lý thuyết trong kinh điển Phật giáo và chủ giải Phật giáo. Đa phần trong Phật giáo cho rằng các pháp phụ thuộc vào nhau, nương nhau mà tồn tại, ràng buộc với nhau. Điều này phổ biến cả trong Bắc Tông lẫn Nam Tông. “Các pháp là phụ thuộc, các pháp là nương tựa vào nhau, các pháp là phụ thuộc vào nhau nương nhau cùng tồn tại”. Đây là phổ biến trong kinh điển. Nó trái ngược với sự thật vô chủ vô sở hữu, trái ngược với độc lập.
Vì sao lại như vậy? Vì tất cả đều dựa trên hiểu biết vô minh về Duyên khởi: “một nhân sinh quả, nhân biến đổi thành quả”, cho nên “nhân trong quả, quả trong nhân”, “tương tức, tương nhập” với nhau, nương tựa nhau mà tồn tại.
Nếu Pháp Lệ Thuộc Nhau, Đức Phật Có Giải Thoát Được?
Nếu như thực sự các pháp lệ thuộc vào nhau, ràng buộc với nhau, nương nhau mà tồn tại, thế thì Đức Phật có giải thoát được không? Đức Phật cũng là một pháp. Nếu các pháp lệ thuộc với nhau, ràng buộc với nhau, được diễn tả như một tấm lưới (gọi là lưới trời Đế Thích, mỗi mắt lưới là một pháp và nó ràng buộc với nhau bởi một mạng lưới chằng chịt như vậy), thế thì nếu các pháp phụ thuộc, ràng buộc với nhau, không độc lập, thì Đức Phật vẫn bị ràng buộc mãi trong màn lưới đó, làm sao ngài giải thoát được? Ngài vẫn lệ thuộc, vẫn ràng buộc với các pháp khác. Vì vậy, bản chất các pháp là độc lập, không ràng buộc, thì lúc đó Đức Phật mới giải thoát được.
“Của” – Từ Nguy Hiểm Thể Hiện Tư Tưởng Chủ Sở Hữu và Gốc Rễ của Khổ
Trong “Giải mã bí ẩn Tây Du Ký”, cư sĩ nói chữ “của” là nguy hiểm nhất. Chữ “của” thể hiện quan hệ Chủ Nhân Chủ Sở hữu, và chữ “của” đó chính là tư tưởng chủ nhân chủ sở hữu đang chi phối đời sống con người. Con người xem đó là dĩ nhiên, xem đó là đúng sự thực. Nhưng thực sự chữ “của” đó phản ánh tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu, tư tưởng điều khiển. Nó trái ngược hoàn toàn với sự thật các pháp là vô chủ vô sở hữu.
Mọi nỗi khổ của con người, như kinh điển mô tả: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, cầu bất đắc khổ, oán tăng hội khổ, ái biệt ly khổ. Nhưng thực chất nó chỉ có thể diễn tả bằng một cái khổ trong đó, đó là cầu bất đắc khổ. Cái khổ của nhân loại này là cầu bất đắc khổ. “Cầu mong mà không được là khổ”, điều này rõ ràng rồi. Hy vọng, mong muốn cái gì, mơ ước cái gì, muốn có cái gì mà không được cái đó là khổ. Nhưng quý vị phải hiểu rằng cái cầu mong đó chính là cầu mong làm chủ, cầu mong sở hữu, cầu mong điều khiển.
Rõ ràng, cái mà nhân loại cầu mong là gì? Cầu mong làm chủ, cầu mong sở hữu, cầu mong điều khiển các sự vật hiện tượng. Nhưng vì bản chất của các pháp là vô chủ vô sở, cho nên không bao giờ có thể cầu mong để đạt được làm chủ, để đạt được sở hữu, để đạt được điều khiển. Cho nên loài người cầu mong cái không thể cầu mong được. Cầu mong làm chủ, cầu mong sở hữu, cầu mong điều khiển cái vốn dĩ vô chủ vô sở.
Mọi xung đột trên thế giới này, từ xung đột trong gia đình ra địa phương, xã hội, xung đột từ vật chất đến tinh thần, là xung đột cái quyền làm chủ, quyền sở hữu. Và rõ ràng, bản chất của sự vật hiện tượng, bản chất của thực tại là vô chủ vô sở hữu. Cho nên con người mong cầu cái không thể mong cầu được, mong cầu làm chủ, mong cầu sở hữu, mong cầu điều khiển cái không thể đạt được, cho nên khổ là vì vậy.
Thực Tại Vô Chủ Vô Sở hữu và Ý Nghĩa của Tính Độc Lập
Điều được giảng dạy ở đây là chúng ta quan sát trên sự thực, thực tại là vô chủ vô sở, các pháp vô chủ vô sở hữu. Quý vị suy ngẫm, quý vị quan sát cho kỹ thì thấy rằng vô chủ vô sở có ý nghĩa là các pháp là độc lập. Và vô chủ vô sở hữu thì ý nghĩa của nó là nói đến không có một cái “ta”, một cái bản ngã nào là chủ nhân chủ sở hữu. Vì các pháp là vô chủ vô sở hữu, cho nên không có cái “ta” đó, cho nên trong kinh điển gọi cái đó là vô ngã. Phải phân biệt cho kỹ như vậy.
Nội dung được trình bày lại bởi AI Gemini từ bài pháp của Thiền sư Nguyên Tuệ
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=KJpOAaxpS3o